
Dưới đây là những gì bạn cần biết vào thứ Năm, ngày 18 tháng 12:
Những người tham gia thị trường chuẩn bị cho một ngày giao dịch có độ biến động cao với các quyết định chính sách của Ngân hàng trung ương Anh (BoE) và Ngân hàng Trung ương Châu Âu (ECB), cùng với dữ liệu Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 11 từ Hoa Kỳ (Mỹ).
Trước những sự kiện quan trọng này, hoạt động giao dịch vẫn tương đối trầm lắng vào buổi sáng châu Âu. Sau khi phục hồi và đóng cửa cao hơn một chút vào thứ Tư, Chỉ số đô la Mỹ (USD) giao dịch đi ngang dưới mức 98,50 trong buổi sáng châu Âu. Lạm phát hàng năm ở Mỹ, được đo bằng sự thay đổi của CPI, được dự báo sẽ tăng lên 3,1% trong tháng 11 từ mức 3% trong tháng 10. Trong thời gian này, CPI cốt lõi dự kiến sẽ tăng 3%, phù hợp với số liệu tháng 10. Dữ liệu Số đơn yêu cầu trợ cấp thất nghiệp lần đầu hàng tuần và các báo cáo hoạt động sản xuất khu vực từ Mỹ cũng sẽ được những người tham gia thị trường theo dõi chặt chẽ. Trong khi đó, hợp đồng tương lai chỉ số chứng khoán Mỹ giao dịch trái chiều khi bắt đầu phiên châu Âu.
Bảng bên dưới hiển thị tỷ lệ phần trăm thay đổi của Đô la Mỹ (USD) so với các loại tiền tệ chính được liệt kê tháng này. Đô la Mỹ là yếu nhất so với Đô la Canada.
| USD | EUR | GBP | JPY | CAD | AUD | NZD | CHF | |
|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
| USD | -1.26% | -0.98% | -0.20% | -1.43% | -0.84% | -0.55% | -1.03% | |
| EUR | 1.26% | 0.29% | 1.08% | -0.16% | 0.43% | 0.74% | 0.22% | |
| GBP | 0.98% | -0.29% | 1.04% | -0.45% | 0.15% | 0.44% | -0.07% | |
| JPY | 0.20% | -1.08% | -1.04% | -1.23% | -0.66% | -0.36% | -0.87% | |
| CAD | 1.43% | 0.16% | 0.45% | 1.23% | 0.55% | 0.89% | 0.37% | |
| AUD | 0.84% | -0.43% | -0.15% | 0.66% | -0.55% | 0.29% | -0.20% | |
| NZD | 0.55% | -0.74% | -0.44% | 0.36% | -0.89% | -0.29% | -0.51% | |
| CHF | 1.03% | -0.22% | 0.07% | 0.87% | -0.37% | 0.20% | 0.51% |
Bản đồ nhiệt hiển thị phần trăm thay đổi của các loại tiền tệ chính so với nhau. Đồng tiền cơ sở được chọn từ cột bên trái, và đồng tiền định giá được chọn từ hàng trên cùng. Ví dụ: nếu bạn chọn Đô la Mỹ từ cột bên trái và di chuyển dọc theo đường ngang sang Đồng Yên Nhật, phần trăm thay đổi được hiển thị trong ô sẽ đại diện cho USD (đồng tiền cơ sở)/JPY (đồng tiền định giá).
EUR/USD giảm xuống gần 1,1700 vào thứ Tư nhưng đã xoá đi một phần lớn tổn thất hàng ngày trong phiên giao dịch Mỹ. Cặp tiền này được nhìn thấy lần cuối giao dịch hầu như không thay đổi trong ngày ở mức 1,1745. ECB được dự đoán sẽ duy trì các thiết lập chính sách sau cuộc họp cuối cùng của năm. Cùng với tuyên bố chính sách, ECB cũng sẽ công bố các dự báo kinh tế vĩ mô đã được điều chỉnh. Bắt đầu từ 13:45 GMT, Chủ tịch ECB Christine Lagarde sẽ phát biểu về triển vọng chính sách và trả lời các câu hỏi từ báo chí.
GBP/USD chịu áp lực giảm giá sau dữ liệu lạm phát yếu từ Vương quốc Anh và đã gần chạm mức 1,3300 vào thứ Tư. Mặc dù cặp tiền này đã phục hồi sau đó trong ngày, nhưng vẫn mất hơn 0,3%. BoE dự kiến sẽ cắt giảm lãi suất chính sách 25 điểm cơ bản, và sẽ không có cuộc họp báo lần này. Tại thời điểm báo chí, GBP/USD đang giao dịch giảm nhẹ trong ngày ở mức 1,3365.
Dữ liệu từ Úc cho thấy Kỳ vọng lạm phát của người tiêu dùng đã tăng lên 4,7% trong tháng 12 từ 4,5% trong tháng 11. Sau khi mất khoảng 0,4% vào thứ Tư, AUD/USD vẫn ở thế yếu và giao dịch gần 0,6600 vào sáng thứ Năm.
Sau hai ngày giảm, USD/JPY đã đảo chiều và tăng hơn 0,6% vào thứ Tư. Cặp tiền này tiếp tục tăng lên gần 156,00 trong phiên châu Âu vào thứ Năm. Ngân hàng Trung ương Nhật Bản (BoJ) sẽ công bố quyết định lãi suất trong phiên châu Á vào thứ Sáu.
Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của New Zealand đã tăng trưởng với tỷ lệ hàng năm là 1,3% trong quý ba, Cục Thống kê New Zealand báo cáo vào thứ Năm. Số liệu này theo sau mức giảm 1,1% ghi nhận trong quý hai và phù hợp với kỳ vọng của thị trường. Tuy nhiên, NZD/USD không thể hưởng lợi từ số liệu GDP lạc quan và được nhìn thấy lần cuối giảm 0,2% trong ngày gần 0,5760.
Sau những biến động không ổn định thấy trước đó trong tuần, Vàng đã thu thập được đà tăng và tăng khoảng 0,8% vào thứ Tư. XAU/USD củng cố các mức tăng gần đây trong buổi sáng châu Âu vào thứ Năm và dao động trong một kênh hẹp dưới 4.350$.
Ngân hàng trung ương có nhiệm vụ chính là đảm bảo giá cả ổn định ở một quốc gia hoặc khu vực. Các nền kinh tế liên tục phải đối mặt với lạm phát hoặc giảm phát khi giá của một số hàng hóa và dịch vụ nhất định biến động. Giá cả tăng liên tục đối với cùng một loại hàng hóa có nghĩa là lạm phát, giá cả giảm liên tục đối với cùng một loại hàng hóa có nghĩa là giảm phát. Nhiệm vụ của ngân hàng trung ương là giữ cho nhu cầu phù hợp bằng cách điều chỉnh lãi suất chính sách của mình. Đối với các ngân hàng trung ương lớn nhất như Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ (Fed), Ngân hàng Trung ương Châu Âu (ECB) hoặc Ngân hàng trung ương Anh (BoE), nhiệm vụ là giữ lạm phát ở mức gần 2%.
Ngân hàng trung ương có một công cụ quan trọng để tăng hoặc giảm lạm phát, đó là điều chỉnh lãi suất chính sách chuẩn, thường được gọi là lãi suất. Vào những thời điểm được thông báo trước, ngân hàng trung ương sẽ ban hành một tuyên bố về lãi suất chính sách của mình và đưa ra lý do bổ sung về lý do tại sao họ vẫn giữ nguyên hoặc thay đổi (cắt giảm hoặc tăng lãi suất). Các ngân hàng địa phương sẽ điều chỉnh lãi suất tiết kiệm và cho vay của mình cho phù hợp, điều này sẽ khiến mọi người khó hoặc dễ kiếm tiền từ tiền tiết kiệm của mình hoặc các công ty khó vay vốn và đầu tư vào doanh nghiệp của mình. Khi ngân hàng trung ương tăng đáng kể lãi suất, điều này được gọi là thắt chặt tiền tệ. Khi ngân hàng trung ương cắt giảm lãi suất chuẩn, điều này được gọi là nới lỏng tiền tệ.
Một ngân hàng trung ương thường độc lập về mặt chính trị. Các thành viên của hội đồng chính sách ngân hàng trung ương phải trải qua một loạt các hội đồng và phiên điều trần trước khi được bổ nhiệm vào một ghế trong hội đồng chính sách. Mỗi thành viên trong hội đồng đó thường có một niềm tin nhất định về cách ngân hàng trung ương nên kiểm soát lạm phát và chính sách tiền tệ tiếp theo. Các thành viên muốn có một chính sách tiền tệ rất lỏng lẻo, với lãi suất thấp và cho vay giá rẻ, để thúc đẩy nền kinh tế đáng kể trong khi vẫn hài lòng khi thấy lạm phát chỉ cao hơn 2% một chút, được gọi là 'bồ câu'. Các thành viên muốn thấy lãi suất cao hơn để thưởng cho tiền tiết kiệm và muốn duy trì lạm phát mọi lúc được gọi là 'diều hâu' và sẽ không nghỉ ngơi cho đến khi lạm phát ở mức hoặc thấp hơn một chút là 2%.
Thông thường, có một chủ tịch hoặc tổng thống điều hành mỗi cuộc họp, cần tạo ra sự đồng thuận giữa phe diều hâu hoặc phe bồ câu và có tiếng nói cuối cùng khi nào thì đưa ra quyết định bỏ phiếu để tránh tỷ lệ hòa 50-50 về việc có nên điều chỉnh chính sách hiện tại hay không. Chủ tịch sẽ có bài phát biểu thường có thể được theo dõi trực tiếp, trong đó lập trường và triển vọng tiền tệ hiện tại được truyền đạt. Một ngân hàng trung ương sẽ cố gắng thúc đẩy chính sách tiền tệ của mình mà không gây ra biến động mạnh về lãi suất, cổ phiếu hoặc tiền tệ của mình. Tất cả các thành viên của ngân hàng trung ương sẽ truyền đạt lập trường của mình tới thị trường trước sự kiện họp chính sách. Vài ngày trước khi cuộc họp chính sách diễn ra cho đến khi chính sách mới được truyền đạt, các thành viên bị cấm nói chuyện công khai. Đây được gọi là thời gian cấm phát biểu.