GBP/JPY giữ mức thua lỗ sau khi ghi nhận mức tăng trong bốn ngày liên tiếp trước đó, giao dịch quanh mức 191,60 trong những giờ đầu của phiên châu Âu vào thứ Năm. Sự giảm giá diễn ra khi đồng yên Nhật (JPY) mạnh lên phản ứng với triển vọng diều hâu từ Ngân hàng trung ương Nhật Bản (BoJ) về chính sách tiền tệ của mình.
Lãi suất trái phiếu chính phủ kỳ hạn 10 năm của Nhật Bản đã tăng vọt qua 1,5% vào thứ Năm, đánh dấu mức cao nhất trong hơn 15 năm. Sự tăng này được ảnh hưởng bởi một đợt tăng giá rộng rãi trong lãi suất trái phiếu châu Âu, sau thông báo của Đức về quỹ hạ tầng 500 tỷ euro và kế hoạch cải cách quy tắc vay mượn. Những biện pháp này được kỳ vọng sẽ thúc đẩy tăng trưởng ở Đức, tạo động lực cho tâm lý nhà đầu tư.
Phó Thống đốc Ngân hàng trung ương Nhật Bản Shinichi Uchida đã khẳng định trong tuần này rằng ngân hàng trung ương sẽ xem xét việc tăng lãi suất thêm nếu các điều kiện kinh tế đáp ứng kỳ vọng. Uchida nhấn mạnh rằng Nhật Bản đang ở giai đoạn đầu của việc thoát khỏi chính sách nới lỏng tiền tệ kéo dài, báo hiệu một sự chuyển hướng tiềm năng sang lập trường hạn chế hơn.
Vào thứ Năm, Thứ trưởng Tài chính Nhật Bản phụ trách các vấn đề quốc tế, Atsushi Mimura, đã đề cập đến những lo ngại về chủ nghĩa bảo hộ toàn cầu đang gia tăng, bao gồm các biện pháp thuế quan. Mimura nhấn mạnh sự cần thiết phải tìm ra một cách tiếp cận cân bằng để giảm thiểu các tác động tiêu cực của toàn cầu hóa trong khi ngăn chặn sự trượt dốc hoàn toàn vào các chính sách bảo hộ.
Cặp GBP/JPY có thể lấy lại vị thế của mình sau những nhận xét thận trọng từ các quan chức Ngân hàng trung ương Anh (BoE). Thống đốc BoE Andrew Bailey, điều trần trước Ủy ban Lựa chọn Kho bạc vào thứ Tư, cho biết, "Chúng tôi dự đoán sẽ có sự gia tăng lạm phát, nhưng sẽ không giống như vài năm trước. Tôi nghĩ rằng khả năng xảy ra các hiệu ứng lạm phát vòng hai do nền kinh tế suy yếu là ít hơn."
Trong khi đó, nhà hoạch định chính sách BoE Megan Greene, cũng phát biểu trước Ủy ban Kho bạc, nhấn mạnh một cách tiếp cận thận trọng và dần dần trong việc nới lỏng các hạn chế tiền tệ. Greene lưu ý, "Có khả năng tình trạng lạm phát kéo dài sẽ tự giảm dần," đồng thời nhắc lại rằng chính sách tiền tệ có khả năng sẽ cần phải duy trì tính hạn chế.
Nhà kinh tế trưởng BoE Huw Pill cũng đã phát biểu trước các nhà lập pháp trong Quốc hội, cho biết, "Chúng tôi cần phải cảnh giác với những cú sốc mới có thể ảnh hưởng đến con đường trở lại lạm phát 2%. Bằng chứng cho thấy không nên cắt giảm lãi suất ngân hàng nhanh chóng hơn cho tôi."
Lãi suất do các tổ chức tài chính tính cho các khoản vay của người đi vay và được trả dưới dạng lãi suất cho người gửi tiền và người tiết kiệm. Lãi suất này chịu ảnh hưởng của lãi suất cho vay cơ bản, do các ngân hàng trung ương thiết lập để ứng phó với những thay đổi trong nền kinh tế. Các ngân hàng trung ương thường có nhiệm vụ đảm bảo ổn định giá cả, trong hầu hết các trường hợp có nghĩa là nhắm mục tiêu vào tỷ lệ lạm phát cơ bản khoảng 2%. Nếu lạm phát giảm xuống dưới mục tiêu, ngân hàng trung ương có thể cắt giảm lãi suất cho vay cơ bản, nhằm mục đích kích thích cho vay và thúc đẩy nền kinh tế. Nếu lạm phát tăng đáng kể trên 2%, thông thường ngân hàng trung ương sẽ tăng lãi suất cho vay cơ bản để cố gắng hạ lạm phát.
Lãi suất cao hơn thường giúp tăng giá trị đồng tiền của một quốc gia vì chúng khiến quốc gia này trở thành nơi hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư toàn cầu để gửi tiền.
Lãi suất cao hơn nhìn chung sẽ gây áp lực lên giá Vàng vì làm tăng chi phí cơ hội khi nắm giữ Vàng thay vì đầu tư vào tài sản có lãi hoặc gửi tiền mặt vào ngân hàng. Nếu lãi suất cao, điều này thường đẩy giá Đô la Mỹ (USD) lên cao và vì Vàng được định giá bằng Đô la, điều này có tác dụng làm giảm giá Vàng.
Lãi suất quỹ Fed là lãi suất qua đêm mà các ngân hàng Hoa Kỳ cho nhau vay. Đây là lãi suất tiêu đề thường được Cục Dự trữ Liên bang đưa ra tại các cuộc họp FOMC. Lãi suất này được thiết lập theo phạm vi, ví dụ 4,75%-5,00%, mặc dù giới hạn trên (trong trường hợp đó là 5,00%) là con số được trích dẫn. Kỳ vọng của thị trường đối với lãi suất quỹ Fed trong tương lai được theo dõi bởi công cụ CME FedWatch, công cụ này định hình cách nhiều thị trường tài chính hành xử khi dự đoán các quyết định về chính sách tiền tệ trong tương lai của Cục Dự trữ Liên bang.