Dưới đây là những gì bạn cần biết vào thứ Ba, ngày 25 tháng 2:
Các cặp tiền tệ chính đã không thể thực hiện một động thái quyết định theo bất kỳ hướng nào vào thứ Hai do thiếu dữ liệu công bố cấp cao. Vào thứ Ba, Ngân hàng Trung ương Châu Âu (ECB) sẽ công bố dữ liệu về Tỷ lệ tiền lương được đàm phán cho quý thứ tư. Trong nửa cuối ngày, lịch kinh tế Mỹ sẽ có các khảo sát sản xuất khu vực và dữ liệu Chỉ số niềm tin người tiêu dùng của Hội đồng Hội nghị cho tháng 2. Thêm vào đó, một số nhà hoạch định chính sách của Cục Dự trữ Liên bang sẽ có bài phát biểu và Tổng thống Mỹ Donald Trump sẽ ký thêm nhiều sắc lệnh hành pháp.
Bảng bên dưới hiển thị tỷ lệ phần trăm thay đổi của Đô la Mỹ (USD) so với các loại tiền tệ chính được liệt kê 7 ngày trước. Đô la Mỹ là yếu nhất so với Đồng Yên Nhật.
USD | EUR | GBP | JPY | CAD | AUD | NZD | CHF | |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|
USD | 0.13% | -0.00% | -1.18% | 0.55% | 0.21% | 0.13% | -0.43% | |
EUR | -0.13% | -0.14% | -1.30% | 0.43% | 0.08% | -0.00% | -0.55% | |
GBP | 0.00% | 0.14% | -1.17% | 0.56% | 0.21% | 0.13% | -0.42% | |
JPY | 1.18% | 1.30% | 1.17% | 1.74% | 1.39% | 1.30% | 0.75% | |
CAD | -0.55% | -0.43% | -0.56% | -1.74% | -0.34% | -0.42% | -0.97% | |
AUD | -0.21% | -0.08% | -0.21% | -1.39% | 0.34% | -0.08% | -0.64% | |
NZD | -0.13% | 0.00% | -0.13% | -1.30% | 0.42% | 0.08% | -0.55% | |
CHF | 0.43% | 0.55% | 0.42% | -0.75% | 0.97% | 0.64% | 0.55% |
Bản đồ nhiệt hiển thị phần trăm thay đổi của các loại tiền tệ chính so với nhau. Đồng tiền cơ sở được chọn từ cột bên trái, và đồng tiền định giá được chọn từ hàng trên cùng. Ví dụ: nếu bạn chọn Đô la Mỹ từ cột bên trái và di chuyển dọc theo đường ngang sang Đồng Yên Nhật, phần trăm thay đổi được hiển thị trong ô sẽ đại diện cho USD (đồng tiền cơ sở)/JPY (đồng tiền định giá).
Chỉ số Đô la Mỹ (USD) bắt đầu tuần với áp lực bán khiêm tốn và chạm mức thấp nhất kể từ đầu tháng 12 dưới 106,20. Chỉ số này đã được hưởng lợi từ tâm lý thận trọng của thị trường trong nửa cuối ngày thứ Hai và xóa bỏ các khoản lỗ hàng ngày. Đầu ngày thứ Ba, chỉ số dao động trong một phạm vi hẹp trên 106,50. Trump cho biết vào thứ Hai rằng thuế quan đối với hàng nhập khẩu từ Canada và Mexico sẽ được thực hiện theo đúng lịch trình.
EUR/USD mở cửa với tín hiệu tăng vào thứ Hai và leo lên trên 1,0500 khi thị trường phản ứng với kết quả bầu cử của Đức. Sau khi điều chỉnh mức tăng hàng ngày để đóng cửa trong trạng thái không thay đổi, cặp tiền tệ này dường như đã bước vào giai đoạn củng cố trên 1,0450 vào buổi sáng thứ Ba tại Châu Âu. Isabel Schnabel, Thành viên Ban điều hành của Ngân hàng Trung ương Châu Âu, sẽ có bài phát biểu chính tại Hội nghị Nghiên cứu thường niên của Ngân hàng Anh.
GBP/USD đã mất lực kéo sau khi tăng lên gần 1,2700 vào đầu ngày thứ Hai và kết thúc ngày với mức giảm nhẹ. Cặp tiền tệ này giữ ổn định trên 1,2600 trong phiên giao dịch châu Âu đầu ngày thứ Ba.
USD/JPY ghi nhận mức tăng nhỏ vào thứ Hai và tiếp tục tăng nhẹ trong phiên giao dịch châu Á vào thứ Ba. Tuy nhiên, cặp tiền tệ này đã mất lực kéo sau khi tăng trên 150,00 và rút lui về 149,60 vào buổi sáng châu Âu. Dữ liệu từ Nhật Bản cho thấy chỉ số giá dịch vụ doanh nghiệp đã tăng 3,1% so với cùng kỳ năm trước trong tháng 1, tăng nhẹ so với mức tăng 3% ghi nhận trong tháng 12.
Vàng đã tận dụng lợi thế từ việc lãi suất trái phiếu chính phủ Mỹ giảm và chạm mức cao nhất mọi thời đại mới trên 2.955$ vào thứ Hai. XAU/USD điều chỉnh giảm vào đầu ngày thứ Ba và được thấy giao dịch dưới 2.940$.
Đô la Mỹ (USD) là tiền tệ chính thức của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ và là tiền tệ 'trên thực tế' của một số lượng đáng kể các quốc gia khác nơi nó được lưu hành cùng với tiền giấy địa phương. Đây là loại tiền tệ được giao dịch nhiều nhất trên thế giới, chiếm hơn 88% tổng doanh thu ngoại hối toàn cầu, tương đương trung bình 6,6 nghìn tỷ đô la giao dịch mỗi ngày, theo dữ liệu từ năm 2022. Sau Thế chiến thứ hai, USD đã thay thế Bảng Anh trở thành đồng tiền dự trữ của thế giới. Trong phần lớn lịch sử của mình, Đô la Mỹ được hỗ trợ bởi Vàng, cho đến khi Thỏa thuận Bretton Woods năm 1971 khi Bản vị Vàng không còn nữa.
Yếu tố quan trọng nhất tác động đến giá trị của đồng đô la Mỹ là chính sách tiền tệ, được định hình bởi Cục Dự trữ Liên bang (Fed). Fed có hai nhiệm vụ: đạt được sự ổn định giá cả (kiểm soát lạm phát) và thúc đẩy việc làm đầy đủ. Công cụ chính của Fed để đạt được hai mục tiêu này là điều chỉnh lãi suất. Khi giá cả tăng quá nhanh và lạm phát cao hơn mục tiêu 2% của Fed, Fed sẽ tăng lãi suất, điều này giúp giá trị của đồng đô la Mỹ tăng. Khi lạm phát giảm xuống dưới 2% hoặc Tỷ lệ thất nghiệp quá cao, Fed có thể hạ lãi suất, điều này gây áp lực lên đồng bạc xanh.
Trong những tình huống cực đoan, Cục Dự trữ Liên bang cũng có thể in thêm Đô la và ban hành nới lỏng định lượng (QE). QE là quá trình mà Fed tăng đáng kể dòng tín dụng trong một hệ thống tài chính bế tắc. Đây là một biện pháp chính sách không chuẩn được sử dụng khi tín dụng đã cạn kiệt vì các ngân hàng sẽ không cho nhau vay (vì sợ bên đối tác vỡ nợ). Đây là biện pháp cuối cùng khi việc chỉ đơn giản là hạ lãi suất không có khả năng đạt được kết quả cần thiết. Đây là vũ khí được Fed lựa chọn để chống lại cuộc khủng hoảng tín dụng xảy ra trong cuộc Đại khủng hoảng tài chính năm 2008. Nó liên quan đến việc Fed in thêm Đô la và sử dụng chúng để mua trái phiếu chính phủ Hoa Kỳ chủ yếu từ các tổ chức tài chính. QE thường dẫn đến đồng Đô la Mỹ yếu hơn.
Thắt chặt định lượng (QT) là quá trình ngược lại trong đó Cục Dự trữ Liên bang ngừng mua trái phiếu từ các tổ chức tài chính và không tái đầu tư vốn từ các trái phiếu mà họ nắm giữ đến hạn vào các giao dịch mua mới. Thông thường, điều này có lợi cho đồng đô la Mỹ.