AUD/JPY tăng nhẹ sau khi ghi nhận mức giảm hơn 1% trong phiên trước, giao dịch quanh mức 97,30 trong giờ giao dịch châu Á vào thứ Ba. Đà tăng của cặp tiền tệ chéo AUD/JPY có thể bị hạn chế trong bối cảnh khả năng Ngân hàng Dự trữ Úc (RBA) bắt đầu cắt giảm lãi suất sớm nhất vào tháng tới tăng cao.
Tâm lý ôn hòa xung quanh triển vọng chính sách của RBA được thúc đẩy bởi dữ liệu lạm phát cơ bản yếu hơn, đã giảm xuống mức thấp nhất kể từ quý 4 năm 2021, gần với phạm vi mục tiêu 2% đến 3% của ngân hàng trung ương. Tất cả sự chú ý hiện đang đổ dồn vào báo cáo lạm phát hàng quý sắp tới của Úc, dự kiến sẽ được công bố vào thứ Tư, vì nó có thể cung cấp thêm manh mối về hướng đi tương lai của lãi suất.
Đồng Đô la Úc cũng không nhận được sự hỗ trợ từ các biện pháp kích thích gần đây của Trung Quốc nhằm thúc đẩy phát triển các sản phẩm đầu tư chỉ số, nỗ lực mới nhất của nước này để hồi sinh thị trường chứng khoán đang suy yếu. Ủy ban Chứng khoán Trung Quốc (CSRC) đã phê duyệt vòng thứ hai của các chương trình thí điểm đầu tư cổ phiếu dài hạn trị giá 52 tỷ Nhân dân tệ (7,25 tỷ đô la). Là đối tác thương mại gần gũi, hiệu suất kinh tế của Trung Quốc ảnh hưởng đáng kể đến nền kinh tế Úc.
Cặp tiền tệ chéo AUD/JPY có thể mất giá khi đồng yên Nhật (JPY) mạnh lên, theo sau kỳ vọng ngày càng tăng rằng Ngân hàng trung ương Nhật Bản (BoJ) sẽ tiếp tục tăng lãi suất. Tuần trước, BoJ đã tái khẳng định cam kết tiếp tục tăng lãi suất và điều chỉnh lập trường chính sách tiền tệ nếu triển vọng được trình bày tại cuộc họp tháng 1 diễn ra như mong đợi.
BoJ cũng đã công bố mua 200 tỷ JPY thương phiếu và xác nhận sẽ cung cấp tài trợ bằng Đô la Mỹ (USD) dựa trên tài sản thế chấp gộp. Trong khi đó, Bộ trưởng Kinh tế Nhật Bản, Ryosei Akazawa, đã bình luận vào thứ Ba rằng ông sẽ "theo dõi chặt chẽ tác động của việc tăng lãi suất đối với nền kinh tế."
Lãi suất do các tổ chức tài chính tính cho các khoản vay của người đi vay và được trả dưới dạng lãi suất cho người gửi tiền và người tiết kiệm. Lãi suất này chịu ảnh hưởng của lãi suất cho vay cơ bản, do các ngân hàng trung ương thiết lập để ứng phó với những thay đổi trong nền kinh tế. Các ngân hàng trung ương thường có nhiệm vụ đảm bảo ổn định giá cả, trong hầu hết các trường hợp có nghĩa là nhắm mục tiêu vào tỷ lệ lạm phát cơ bản khoảng 2%. Nếu lạm phát giảm xuống dưới mục tiêu, ngân hàng trung ương có thể cắt giảm lãi suất cho vay cơ bản, nhằm mục đích kích thích cho vay và thúc đẩy nền kinh tế. Nếu lạm phát tăng đáng kể trên 2%, thông thường ngân hàng trung ương sẽ tăng lãi suất cho vay cơ bản để cố gắng hạ lạm phát.
Lãi suất cao hơn thường giúp tăng giá trị đồng tiền của một quốc gia vì chúng khiến quốc gia này trở thành nơi hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư toàn cầu để gửi tiền.
Lãi suất cao hơn nhìn chung sẽ gây áp lực lên giá Vàng vì làm tăng chi phí cơ hội khi nắm giữ Vàng thay vì đầu tư vào tài sản có lãi hoặc gửi tiền mặt vào ngân hàng. Nếu lãi suất cao, điều này thường đẩy giá Đô la Mỹ (USD) lên cao và vì Vàng được định giá bằng Đô la, điều này có tác dụng làm giảm giá Vàng.
Lãi suất quỹ Fed là lãi suất qua đêm mà các ngân hàng Hoa Kỳ cho nhau vay. Đây là lãi suất tiêu đề thường được Cục Dự trữ Liên bang đưa ra tại các cuộc họp FOMC. Lãi suất này được thiết lập theo phạm vi, ví dụ 4,75%-5,00%, mặc dù giới hạn trên (trong trường hợp đó là 5,00%) là con số được trích dẫn. Kỳ vọng của thị trường đối với lãi suất quỹ Fed trong tương lai được theo dõi bởi công cụ CME FedWatch, công cụ này định hình cách nhiều thị trường tài chính hành xử khi dự đoán các quyết định về chính sách tiền tệ trong tương lai của Cục Dự trữ Liên bang.