Đây là những điều bạn cần biết vào thứ Tư, ngày 29 tháng 1:
Đồng đô la Mỹ (USD) gặp khó khăn trong việc xây dựng đà tăng của ngày thứ Ba khi các nhà đầu tư đứng ngoài cuộc trước các thông báo chính sách tiền tệ được mong đợi từ Cục Dự trữ Liên bang (Fed). Báo cáo kinh tế của Mỹ cũng sẽ nêu rõ dữ liệu Cán cân thương mại hàng hóa cho tháng 12. Ngoài ra, Ngân hàng trung ương Canada (BoC) sẽ công bố quyết định lãi suất trong đầu phiên giao dịch tại Mỹ vào thứ Tư.
Bảng bên dưới hiển thị tỷ lệ phần trăm thay đổi của Đô la Mỹ (USD) so với các loại tiền tệ chính được liệt kê tuần này. Đô la Mỹ mạnh nhất so với Đô la Úc.
USD | EUR | GBP | JPY | CAD | AUD | NZD | CHF | |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|
USD | 0.60% | 0.17% | -0.29% | 0.27% | 1.16% | 0.75% | -0.11% | |
EUR | -0.60% | -0.36% | -0.74% | -0.19% | 0.56% | 0.27% | -0.60% | |
GBP | -0.17% | 0.36% | -0.70% | 0.18% | 0.93% | 0.65% | -0.24% | |
JPY | 0.29% | 0.74% | 0.70% | 0.61% | 1.64% | 1.29% | 0.33% | |
CAD | -0.27% | 0.19% | -0.18% | -0.61% | 0.69% | 0.48% | -0.41% | |
AUD | -1.16% | -0.56% | -0.93% | -1.64% | -0.69% | -0.25% | -1.11% | |
NZD | -0.75% | -0.27% | -0.65% | -1.29% | -0.48% | 0.25% | -1.10% | |
CHF | 0.11% | 0.60% | 0.24% | -0.33% | 0.41% | 1.11% | 1.10% |
Bản đồ nhiệt hiển thị phần trăm thay đổi của các loại tiền tệ chính so với nhau. Đồng tiền cơ sở được chọn từ cột bên trái, và đồng tiền định giá được chọn từ hàng trên cùng. Ví dụ: nếu bạn chọn Đô la Mỹ từ cột bên trái và di chuyển dọc theo đường ngang sang Đồng Yên Nhật, phần trăm thay đổi được hiển thị trong ô sẽ đại diện cho USD (đồng tiền cơ sở)/JPY (đồng tiền định giá).
Chỉ số USD đã lấy lại lực kéo và tăng gần 0,5% vào thứ Ba khi sự không chắc chắn xung quanh chính sách thuế quan của Tổng thống Mỹ Donald Trump buộc thị trường phải có lập trường thận trọng. Đầu ngày thứ Tư, chỉ số USD duy trì trong giai đoạn tích lũy ngay dưới mức 108,00. Fed được nhiều người dự đoán sẽ giữ nguyên các thiết lập chính sách tiền tệ sau cuộc họp đầu tiên của năm. Sau khi Fed công bố tuyên bố chính sách, Thống đốc Jerome Powell sẽ trả lời các câu hỏi trong một cuộc họp báo bắt đầu lúc 19:30 GMT.
USD/CAD giữ ổn định ở mức khoảng 1,4400 sau khi ghi nhận mức tăng nhỏ vào thứ Ba. BoC dự kiến sẽ hạ lãi suất chính sách 25 điểm cơ bản (bps) xuống 3%.
Trong giờ giao dịch tại châu Á vào thứ Tư, dữ liệu từ Úc cho thấy Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng 2,4% hàng năm trong quý IV. Kết quả này theo sau mức tăng 2,8% được ghi nhận trong quý III và thấp hơn kỳ vọng của thị trường là 2,5%. Đánh giá báo cáo lạm phát, Thủ quỹ Úc Jim Chalmers cho biết thách thức lạm phát tồi tệ nhất đã thực sự qua và thêm rằng hạ cánh mềm mà họ đã lên kế hoạch đang ngày càng có khả năng xảy ra. AUD/USD vẫn chịu áp lực giảm giá khiêm tốn vào buổi sáng châu Âu và giao dịch dưới mức 0,6250.
Theo Biên bản cuộc họp chính sách tiền tệ của Ngân hàng trung ương Nhật Bản (BoJ), một số nhà hoạch định chính sách đã chọn tăng lãi suất lên 0,5%, trong khi đa số bỏ phiếu giữ nguyên lãi suất ở mức 0,25%, viện dẫn sự không chắc chắn trong tăng trưởng tiền lương và điều kiện kinh tế toàn cầu. USD/JPY không có phản ứng ngay lập tức với công bố này và lần cuối được nhìn thấy giao dịch gần mức 155,20.
EUR/USD quay đầu giảm và mất hơn 0,5% vào thứ Ba. Cặp tiền tệ này giữ ổn định ở mức khoảng 1,0430 để bắt đầu phiên giao dịch châu Âu vào thứ Tư. Ngân hàng Trung ương châu Âu sẽ công bố dữ liệu Khoản vay tư nhân cho tháng 12 sau đó trong phiên.
GBP/USD đóng cửa trong vùng tiêu cực vào thứ Ba và chấm dứt chuỗi ba ngày tăng giá. Cặp tiền tệ này giao dịch cao hơn một chút trong ngày trên mức 1,2450 vào đầu ngày thứ Tư.
Sau khi mở cửa tuần giảm giá, vàng đã lấy lại lực kéo và tăng hơn 0,8% vào thứ Ba. XAU/USD gặp khó khăn trong việc duy trì đà tăng nhưng giữ vững trên mức 2.750$.
Chính sách tiền tệ tại Hoa Kỳ được định hình bởi Cục Dự trữ Liên bang (Fed). Fed có hai nhiệm vụ: đạt được sự ổn định giá cả và thúc đẩy việc làm đầy đủ. Công cụ chính của Fed để đạt được các mục tiêu này là điều chỉnh lãi suất. Khi giá cả tăng quá nhanh và lạm phát cao hơn mục tiêu 2% của Fed, Fed sẽ tăng lãi suất, làm tăng chi phí đi vay trên toàn bộ nền kinh tế. Điều này dẫn đến đồng Đô la Mỹ (USD) mạnh hơn vì khiến Hoa Kỳ trở thành nơi hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư quốc tế gửi tiền của họ. Khi lạm phát giảm xuống dưới 2% hoặc Tỷ lệ thất nghiệp quá cao, Fed có thể hạ lãi suất để khuyến khích đi vay, điều này gây áp lực lên Đồng bạc xanh.
Cục Dự trữ Liên bang (Fed) tổ chức tám cuộc họp chính sách mỗi năm, trong đó Ủy ban Thị trường Mở Liên bang (FOMC) đánh giá các điều kiện kinh tế và đưa ra các quyết định về chính sách tiền tệ. FOMC có sự tham dự của mười hai quan chức Fed – bảy thành viên của Hội đồng Thống đốc, Thống đốc Ngân hàng Dự trữ Liên bang New York và bốn trong số mười một Thống đốc Ngân hàng Dự trữ khu vực còn lại, những người phục vụ nhiệm kỳ một năm theo chế độ luân phiên.
Trong những tình huống cực đoan, Cục Dự trữ Liên bang có thể dùng đến một chính sách có tên là Nới lỏng định lượng (QE). QE là quá trình mà Fed tăng đáng kể dòng tín dụng trong một hệ thống tài chính bị kẹt. Đây là một biện pháp chính sách không theo tiêu chuẩn được sử dụng trong các cuộc khủng hoảng hoặc khi lạm phát cực kỳ thấp. Đây là vũ khí được Fed lựa chọn trong cuộc Đại khủng hoảng tài chính năm 2008. Điều này liên quan đến việc Fed in thêm Đô la và sử dụng chúng để mua trái phiếu cấp cao từ các tổ chức tài chính. QE thường làm suy yếu Đồng đô la Mỹ.
Thắt chặt định lượng (QT) là quá trình ngược lại của Nới lỏng định lượng (QE), theo đó Cục Dự trữ Liên bang ngừng mua trái phiếu từ các tổ chức tài chính và không tái đầu tư số tiền gốc từ các trái phiếu mà họ nắm giữ đến hạn để mua trái phiếu mới. Thông thường, điều này có lợi cho giá trị của đồng đô la Mỹ.