Thành viên Hội đồng Thống đốc Cục Dự trữ Liên bang Adriana Kugler cho biết vào tối thứ Ba rằng với thuế nhập khẩu của Mỹ lớn hơn đáng kể so với dự kiến và có khả năng gây áp lực tăng giá, Fed nên giữ nguyên chi phí vay ngắn hạn cho đến khi rủi ro lạm phát giảm, theo Reuters.
Việc tăng thuế quan lớn hơn đáng kể so với dự kiến trước đó.
Ảnh hưởng kinh tế của thuế quan và sự không chắc chắn có khả năng lớn hơn dự đoán.
Hỗ trợ giữ lãi suất chính sách ổn định miễn là rủi ro tăng giá đối với lạm phát tiếp tục, trong khi hoạt động kinh tế và việc làm vẫn ổn định.
Chính sách của Fed được định vị tốt cho các thay đổi vĩ mô.
Nếu thị trường tài chính thắt chặt liên tục, điều này có thể ảnh hưởng đến tăng trưởng trong tương lai.
Đặc biệt theo dõi rủi ro tăng giá đối với lạm phát, rủi ro giảm đối với việc làm.
Tiến trình lạm phát đã chậm lại, vẫn trên mục tiêu 2%.
Thị trường lao động vững chắc, nhìn chung cân bằng.
Kỳ vọng lạm phát dài hạn chủ yếu được neo vững, hy vọng chúng sẽ vẫn như vậy.
GDP quý đầu tiên có thể cho thấy sự điều tiết so với năm 2024, nhưng một số mua trước để tránh thuế quan.
Thuế quan có khả năng gây áp lực tăng giá.
Tại thời điểm viết bài, Chỉ số Đô la Mỹ (DXY) đang giao dịch cao hơn 0,76% trong ngày, đạt 99,73.
Chính sách tiền tệ tại Hoa Kỳ được định hình bởi Cục Dự trữ Liên bang (Fed). Fed có hai nhiệm vụ: đạt được sự ổn định giá cả và thúc đẩy việc làm đầy đủ. Công cụ chính của Fed để đạt được các mục tiêu này là điều chỉnh lãi suất. Khi giá cả tăng quá nhanh và lạm phát cao hơn mục tiêu 2% của Fed, Fed sẽ tăng lãi suất, làm tăng chi phí đi vay trên toàn bộ nền kinh tế. Điều này dẫn đến đồng Đô la Mỹ (USD) mạnh hơn vì khiến Hoa Kỳ trở thành nơi hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư quốc tế gửi tiền của họ. Khi lạm phát giảm xuống dưới 2% hoặc Tỷ lệ thất nghiệp quá cao, Fed có thể hạ lãi suất để khuyến khích đi vay, điều này gây áp lực lên Đồng bạc xanh.
Cục Dự trữ Liên bang (Fed) tổ chức tám cuộc họp chính sách mỗi năm, trong đó Ủy ban Thị trường Mở Liên bang (FOMC) đánh giá các điều kiện kinh tế và đưa ra các quyết định về chính sách tiền tệ. FOMC có sự tham dự của mười hai quan chức Fed – bảy thành viên của Hội đồng Thống đốc, Thống đốc Ngân hàng Dự trữ Liên bang New York và bốn trong số mười một Thống đốc Ngân hàng Dự trữ khu vực còn lại, những người phục vụ nhiệm kỳ một năm theo chế độ luân phiên.
Trong những tình huống cực đoan, Cục Dự trữ Liên bang có thể dùng đến một chính sách có tên là Nới lỏng định lượng (QE). QE là quá trình mà Fed tăng đáng kể dòng tín dụng trong một hệ thống tài chính bị kẹt. Đây là một biện pháp chính sách không theo tiêu chuẩn được sử dụng trong các cuộc khủng hoảng hoặc khi lạm phát cực kỳ thấp. Đây là vũ khí được Fed lựa chọn trong cuộc Đại khủng hoảng tài chính năm 2008. Điều này liên quan đến việc Fed in thêm Đô la và sử dụng chúng để mua trái phiếu cấp cao từ các tổ chức tài chính. QE thường làm suy yếu Đồng đô la Mỹ.
Thắt chặt định lượng (QT) là quá trình ngược lại của Nới lỏng định lượng (QE), theo đó Cục Dự trữ Liên bang ngừng mua trái phiếu từ các tổ chức tài chính và không tái đầu tư số tiền gốc từ các trái phiếu mà họ nắm giữ đến hạn để mua trái phiếu mới. Thông thường, điều này có lợi cho giá trị của đồng đô la Mỹ.