Cặp USD/JPY tăng vọt lên gần 149,20 trong giờ giao dịch Bắc Mỹ vào thứ Tư. Tài sản này mạnh lên khi đồng đô la Mỹ (USD) tăng nhẹ mặc dù báo cáo Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của Mỹ cho tháng 2 thấp hơn mong đợi được công bố. Chỉ số đô la Mỹ (DXY), theo dõi giá trị của đồng bạc xanh so với sáu loại tiền tệ chính, tiến lên gần 103,75 từ mức thấp nhất trong hơn bốn tháng là 103,20 được ghi nhận vào thứ Ba.
Bảng bên dưới hiển thị tỷ lệ phần trăm thay đổi của Đô la Mỹ (USD) so với các loại tiền tệ chính được liệt kê hôm nay. Đô la Mỹ mạnh nhất so với Đồng Yên Nhật.
USD | EUR | GBP | JPY | CAD | AUD | NZD | CHF | |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|
USD | 0.33% | 0.12% | 0.68% | -0.18% | 0.14% | 0.18% | 0.15% | |
EUR | -0.33% | -0.20% | 0.37% | -0.51% | -0.20% | -0.15% | -0.19% | |
GBP | -0.12% | 0.20% | 0.58% | -0.29% | 0.02% | 0.06% | 0.03% | |
JPY | -0.68% | -0.37% | -0.58% | -0.85% | -0.53% | -0.50% | -0.52% | |
CAD | 0.18% | 0.51% | 0.29% | 0.85% | 0.32% | 0.36% | 0.33% | |
AUD | -0.14% | 0.20% | -0.02% | 0.53% | -0.32% | 0.04% | 0.02% | |
NZD | -0.18% | 0.15% | -0.06% | 0.50% | -0.36% | -0.04% | -0.03% | |
CHF | -0.15% | 0.19% | -0.03% | 0.52% | -0.33% | -0.02% | 0.03% |
Bản đồ nhiệt hiển thị phần trăm thay đổi của các loại tiền tệ chính so với nhau. Đồng tiền cơ sở được chọn từ cột bên trái, và đồng tiền định giá được chọn từ hàng trên cùng. Ví dụ: nếu bạn chọn Đô la Mỹ từ cột bên trái và di chuyển dọc theo đường ngang sang Đồng Yên Nhật, phần trăm thay đổi được hiển thị trong ô sẽ đại diện cho USD (đồng tiền cơ sở)/JPY (đồng tiền định giá).
Báo cáo CPI của Mỹ cho thấy lạm phát toàn phần đã tăng 2,8%, chậm hơn so với ước tính 2,9% và mức tăng 3% được ghi nhận trong tháng 1. CPI cơ bản – không bao gồm giá thực phẩm và năng lượng biến động – đã giảm xuống 3,1% từ mức 3,3% trước đó. Các nhà kinh tế dự đoán một sự chậm lại trong dữ liệu lạm phát cơ bản nhưng với tốc độ vừa phải xuống 3,2%. Trong tháng, cả CPI toàn phần và CPI cơ bản đều tăng 0,2%, chậm hơn so với kỳ vọng 0,3%.
Áp lực lạm phát hạ nhiệt dự kiến sẽ buộc các nhà giao dịch tăng đặt cược ủng hộ Cục Dự trữ Liên bang (Fed) giảm lãi suất trong cuộc họp tháng 5. Vào thứ Sáu, Thống đốc Fed Jerome Powell cho biết rằng lập trường chính sách tiền tệ hạn chế sẽ không kéo dài lâu "nếu thị trường lao động bất ngờ yếu đi hoặc lạm phát giảm nhiều hơn mong đợi".
Triển vọng của đồng đô la Mỹ vẫn yếu trong vài tuần qua khi các nhà đầu tư thấy chương trình thuế quan của Tổng thống Mỹ Donald Trump dẫn đến sự suy giảm kinh tế, giả định rằng thuế nhập khẩu cao hơn sẽ dẫn đến sự sụt giảm mạnh trong sức mua của các hộ gia đình.
Trong khi đó, đồng yên Nhật (JPY) hoạt động kém hơn so với các đồng tiền khác mặc dù các công ty lớn của Nhật Bản đã đồng ý tăng lương đáng kể trong năm thứ ba liên tiếp, theo báo cáo của Reuters. Kịch bản như vậy sẽ thúc đẩy kỳ vọng lạm phát và các cược ủng hộ Ngân hàng Trung ương Nhật Bản (BoJ) tăng lãi suất một lần nữa trong năm nay.
Đô la Mỹ (USD) là tiền tệ chính thức của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ và là tiền tệ 'trên thực tế' của một số lượng đáng kể các quốc gia khác nơi nó được lưu hành cùng với tiền giấy địa phương. Đây là loại tiền tệ được giao dịch nhiều nhất trên thế giới, chiếm hơn 88% tổng doanh thu ngoại hối toàn cầu, tương đương trung bình 6,6 nghìn tỷ đô la giao dịch mỗi ngày, theo dữ liệu từ năm 2022. Sau Thế chiến thứ hai, USD đã thay thế Bảng Anh trở thành đồng tiền dự trữ của thế giới. Trong phần lớn lịch sử của mình, Đô la Mỹ được hỗ trợ bởi Vàng, cho đến khi Thỏa thuận Bretton Woods năm 1971 khi Bản vị Vàng không còn nữa.
Yếu tố quan trọng nhất tác động đến giá trị của đồng đô la Mỹ là chính sách tiền tệ, được định hình bởi Cục Dự trữ Liên bang (Fed). Fed có hai nhiệm vụ: đạt được sự ổn định giá cả (kiểm soát lạm phát) và thúc đẩy việc làm đầy đủ. Công cụ chính của Fed để đạt được hai mục tiêu này là điều chỉnh lãi suất. Khi giá cả tăng quá nhanh và lạm phát cao hơn mục tiêu 2% của Fed, Fed sẽ tăng lãi suất, điều này giúp giá trị của đồng đô la Mỹ tăng. Khi lạm phát giảm xuống dưới 2% hoặc Tỷ lệ thất nghiệp quá cao, Fed có thể hạ lãi suất, điều này gây áp lực lên đồng bạc xanh.
Trong những tình huống cực đoan, Cục Dự trữ Liên bang cũng có thể in thêm Đô la và ban hành nới lỏng định lượng (QE). QE là quá trình mà Fed tăng đáng kể dòng tín dụng trong một hệ thống tài chính bế tắc. Đây là một biện pháp chính sách không chuẩn được sử dụng khi tín dụng đã cạn kiệt vì các ngân hàng sẽ không cho nhau vay (vì sợ bên đối tác vỡ nợ). Đây là biện pháp cuối cùng khi việc chỉ đơn giản là hạ lãi suất không có khả năng đạt được kết quả cần thiết. Đây là vũ khí được Fed lựa chọn để chống lại cuộc khủng hoảng tín dụng xảy ra trong cuộc Đại khủng hoảng tài chính năm 2008. Nó liên quan đến việc Fed in thêm Đô la và sử dụng chúng để mua trái phiếu chính phủ Hoa Kỳ chủ yếu từ các tổ chức tài chính. QE thường dẫn đến đồng Đô la Mỹ yếu hơn.
Thắt chặt định lượng (QT) là quá trình ngược lại trong đó Cục Dự trữ Liên bang ngừng mua trái phiếu từ các tổ chức tài chính và không tái đầu tư vốn từ các trái phiếu mà họ nắm giữ đến hạn vào các giao dịch mua mới. Thông thường, điều này có lợi cho đồng đô la Mỹ.