Đây là những gì bạn cần biết vào thứ Hai, ngày 17 tháng 2:
Các cặp tiền tệ chính giao dịch gần mức đóng cửa của tuần trước vào thứ Hai khi điều kiện giao dịch vẫn mỏng, với thị trường tài chính ở Mỹ vẫn đóng cửa để nghỉ lễ Ngày Tổng thống. Lịch kinh tế sẽ không cung cấp bất kỳ dữ liệu cấp cao nào nhưng các nhà đầu tư sẽ chú ý đến các bình luận từ các quan chức Cục Dự trữ Liên bang (Fed) vào cuối ngày.
Bảng bên dưới hiển thị tỷ lệ phần trăm thay đổi của Đô la Mỹ (USD) so với các loại tiền tệ chính được liệt kê 7 ngày trước. Đô la Mỹ là yếu nhất so với Bảng Anh.
USD | EUR | GBP | JPY | CAD | AUD | NZD | CHF | |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|
USD | -1.50% | -1.55% | 0.38% | -0.74% | -1.38% | -1.24% | -1.00% | |
EUR | 1.50% | 0.02% | 2.02% | 0.89% | 0.12% | 0.35% | 0.60% | |
GBP | 1.55% | -0.02% | 1.84% | 0.84% | 0.10% | 0.29% | 0.56% | |
JPY | -0.38% | -2.02% | -1.84% | -1.16% | -1.69% | -1.63% | -1.37% | |
CAD | 0.74% | -0.89% | -0.84% | 1.16% | -0.62% | -0.54% | -0.30% | |
AUD | 1.38% | -0.12% | -0.10% | 1.69% | 0.62% | 0.23% | 0.47% | |
NZD | 1.24% | -0.35% | -0.29% | 1.63% | 0.54% | -0.23% | 0.24% | |
CHF | 1.00% | -0.60% | -0.56% | 1.37% | 0.30% | -0.47% | -0.24% |
Bản đồ nhiệt hiển thị phần trăm thay đổi của các loại tiền tệ chính so với nhau. Đồng tiền cơ sở được chọn từ cột bên trái, và đồng tiền định giá được chọn từ hàng trên cùng. Ví dụ: nếu bạn chọn Đô la Mỹ từ cột bên trái và di chuyển dọc theo đường ngang sang Đồng Yên Nhật, phần trăm thay đổi được hiển thị trong ô sẽ đại diện cho USD (đồng tiền cơ sở)/JPY (đồng tiền định giá).
Dữ liệu do Cục Điều tra Dân số Mỹ công bố vào thứ Sáu cho thấy Doanh số Bán lẻ giảm 0,9% theo tháng trong tháng 1, tệ hơn so với kỳ vọng của thị trường về mức giảm 0,1%. Chỉ số Đô la Mỹ (USD) gặp khó khăn trong việc lấy lại lực kéo vào cuối tuần và giảm hơn 1% hàng tuần. Vào buổi sáng thứ Hai tại châu Âu, Chỉ số USD hầu như không thay đổi trong ngày, dưới mức 107,00 một chút.
Trong giờ giao dịch châu Á vào thứ Hai, dữ liệu từ Nhật Bản cho thấy Sản xuất Công nghiệp giảm 0,2% trong tháng 12, sau mức tăng 0,3% được ghi nhận vào tháng 11. Trong khi đó, Chánh Văn phòng Nội các Nhật Bản Yoshimasa Hayashi cho biết Nhật Bản đối mặt với những thách thức đáng kể nếu các công ty của họ trở thành mục tiêu trong bối cảnh các chính sách của Tổng thống Mỹ Donald Trump. Ông nói thêm rằng chính phủ sẽ phản ứng cẩn thận với các tác động tiềm tàng. USD/JPY chịu áp lực giảm giá khiêm tốn để bắt đầu tuần mới và giao dịch dưới mức 152,00.
EUR/USD được hưởng lợi từ áp lực bán trên diện rộng xung quanh USD và tăng hơn 1,5% trong tuần trước. Cặp tiền tệ này di chuyển đi ngang trong phạm vi hẹp dưới mức 1,0500 vào buổi sáng thứ Hai tại châu Âu.
GBP/USD đạt mức cao nhất kể từ ngày 19 tháng 12 ở mức 1,2630 vào thứ Sáu nhưng đã xóa đi một phần lợi nhuận hàng ngày trong nửa cuối ngày. Tuy nhiên, cặp tiền tệ này đã tăng 1,5% và đóng cửa tuần thứ hai liên tiếp trong vùng tích cực. Trong phiên giao dịch châu Âu đầu ngày, GBP/USD vẫn yên tĩnh quanh mức 1,2600.
Ngân hàng Dự trữ Úc (RBA) sẽ công bố các quyết định chính sách tiền tệ trong phiên giao dịch châu Á đầu ngày thứ Ba. Các nhà đầu tư kỳ vọng RBA sẽ hạ lãi suất chính sách xuống 25 điểm cơ bản (bps) xuống còn 4,1% từ mức 4,35%. AUD/USD giữ vững vị thế vào đầu ngày thứ Hai và giao dịch ở mức cao nhất kể từ giữa tháng 12 trên mức 0,6350.
Vàng đã điều chỉnh giảm mạnh vào thứ Sáu và mất hơn 1,5% trong ngày. XAU/USD lấy lại lực kéo vào thứ Hai và giao dịch cao hơn một cách khiêm tốn trong ngày gần mức 2.890$.
Đô la Mỹ (USD) là tiền tệ chính thức của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ và là tiền tệ 'trên thực tế' của một số lượng đáng kể các quốc gia khác nơi nó được lưu hành cùng với tiền giấy địa phương. Đây là loại tiền tệ được giao dịch nhiều nhất trên thế giới, chiếm hơn 88% tổng doanh thu ngoại hối toàn cầu, tương đương trung bình 6,6 nghìn tỷ đô la giao dịch mỗi ngày, theo dữ liệu từ năm 2022. Sau Thế chiến thứ hai, USD đã thay thế Bảng Anh trở thành đồng tiền dự trữ của thế giới. Trong phần lớn lịch sử của mình, Đô la Mỹ được hỗ trợ bởi Vàng, cho đến khi Thỏa thuận Bretton Woods năm 1971 khi Bản vị Vàng không còn nữa.
Yếu tố quan trọng nhất tác động đến giá trị của đồng đô la Mỹ là chính sách tiền tệ, được định hình bởi Cục Dự trữ Liên bang (Fed). Fed có hai nhiệm vụ: đạt được sự ổn định giá cả (kiểm soát lạm phát) và thúc đẩy việc làm đầy đủ. Công cụ chính của Fed để đạt được hai mục tiêu này là điều chỉnh lãi suất. Khi giá cả tăng quá nhanh và lạm phát cao hơn mục tiêu 2% của Fed, Fed sẽ tăng lãi suất, điều này giúp giá trị của đồng đô la Mỹ tăng. Khi lạm phát giảm xuống dưới 2% hoặc Tỷ lệ thất nghiệp quá cao, Fed có thể hạ lãi suất, điều này gây áp lực lên đồng bạc xanh.
Trong những tình huống cực đoan, Cục Dự trữ Liên bang cũng có thể in thêm Đô la và ban hành nới lỏng định lượng (QE). QE là quá trình mà Fed tăng đáng kể dòng tín dụng trong một hệ thống tài chính bế tắc. Đây là một biện pháp chính sách không chuẩn được sử dụng khi tín dụng đã cạn kiệt vì các ngân hàng sẽ không cho nhau vay (vì sợ bên đối tác vỡ nợ). Đây là biện pháp cuối cùng khi việc chỉ đơn giản là hạ lãi suất không có khả năng đạt được kết quả cần thiết. Đây là vũ khí được Fed lựa chọn để chống lại cuộc khủng hoảng tín dụng xảy ra trong cuộc Đại khủng hoảng tài chính năm 2008. Nó liên quan đến việc Fed in thêm Đô la và sử dụng chúng để mua trái phiếu chính phủ Hoa Kỳ chủ yếu từ các tổ chức tài chính. QE thường dẫn đến đồng Đô la Mỹ yếu hơn.
Thắt chặt định lượng (QT) là quá trình ngược lại trong đó Cục Dự trữ Liên bang ngừng mua trái phiếu từ các tổ chức tài chính và không tái đầu tư vốn từ các trái phiếu mà họ nắm giữ đến hạn vào các giao dịch mua mới. Thông thường, điều này có lợi cho đồng đô la Mỹ.