EUR/USD tăng lên gần 1,0330 trong phiên giao dịch Bắc Mỹ vào thứ Ba khi đồng đô la Mỹ (USD) giảm trước phiên điều trần của Thống đốc Cục Dự trữ Liên bang (Fed) Jerome Powell trước Quốc hội vào lúc 15:00 GMT. Chỉ số đô la Mỹ (DXY), theo dõi giá trị của đồng bạc xanh so với sáu loại tiền tệ chính, giảm 0,15% xuống gần 108,15 tại thời điểm báo chí.
Các nhà đầu tư sẽ chú ý đến những nhận xét của Powell để biết Fed sẽ giữ lãi suất ổn định trong khoảng 4,25%-4,50% trong bao lâu và tác động có thể có của thuế quan 25% đối với tất cả các mặt hàng nhập khẩu thép và nhôm đến triển vọng chính sách tiền tệ.
Vào tháng Giêng, Fed đã giữ nguyên lãi suất và Powell cho biết ngân hàng trung ương sẽ ở trong chế độ chờ cho đến khi thấy "tiến bộ thực sự trong lạm phát hoặc ít nhất là một số yếu kém trong thị trường lao động".
Vào thứ Hai, Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump đã ký các sắc lệnh hành pháp về việc áp thuế 25% đối với hàng nhập khẩu thép và nhôm từ tất cả các quốc gia, có hiệu lực từ ngày 12 tháng 3. Trump cũng cho biết sẽ có các thuế quan đối ứng đối với các quốc gia mà ông cho là có hành vi thương mại không công bằng trong những ngày tới. Tổng thống Mỹ đã phác thảo các thuế quan đối với kim loại nhằm thúc đẩy sản xuất trong nước và giảm sự phụ thuộc vào các quốc gia khác.
Các nhà tham gia thị trường đang lo ngại về chương trình nghị sự quốc tế của Trump, điều này dự kiến sẽ dẫn đến một cuộc chiến thương mại toàn cầu và lạm phát cao trong nền kinh tế Mỹ.
Để có thêm thông tin về lạm phát, các nhà đầu tư sẽ tập trung vào dữ liệu Chỉ số Giá tiêu dùng (CPI) của Mỹ cho tháng Giêng, sẽ được công bố vào thứ Tư lúc 13:30 GMT. Các nhà kinh tế dự đoán CPI cơ bản hàng năm - không bao gồm giá thực phẩm và năng lượng biến động - sẽ tăng với tốc độ chậm hơn là 3,1%, so với mức tăng 3,2% trong tháng 12. Trong cùng kỳ, lạm phát tổng thể được ước tính giữ ổn định ở mức 2,9%.
Bảng bên dưới hiển thị tỷ lệ phần trăm thay đổi của Đồng Euro (EUR) so với các loại tiền tệ chính được liệt kê hôm nay. Đồng Euro mạnh nhất so với Đồng Yên Nhật.
USD | EUR | GBP | JPY | CAD | AUD | NZD | CHF | |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|
USD | -0.23% | -0.28% | 0.24% | 0.05% | -0.09% | -0.16% | 0.20% | |
EUR | 0.23% | -0.07% | 0.46% | 0.28% | 0.13% | 0.06% | 0.43% | |
GBP | 0.28% | 0.07% | 0.55% | 0.34% | 0.18% | 0.11% | 0.48% | |
JPY | -0.24% | -0.46% | -0.55% | -0.19% | -0.34% | -0.41% | -0.03% | |
CAD | -0.05% | -0.28% | -0.34% | 0.19% | -0.14% | -0.21% | 0.15% | |
AUD | 0.09% | -0.13% | -0.18% | 0.34% | 0.14% | -0.07% | 0.32% | |
NZD | 0.16% | -0.06% | -0.11% | 0.41% | 0.21% | 0.07% | 0.37% | |
CHF | -0.20% | -0.43% | -0.48% | 0.03% | -0.15% | -0.32% | -0.37% |
Bản đồ nhiệt hiển thị phần trăm thay đổi của các loại tiền tệ chính so với nhau. Đồng tiền cơ sở được chọn từ cột bên trái, và đồng tiền định giá được chọn từ hàng trên cùng. Ví dụ: nếu bạn chọn Đồng Euro từ cột bên trái và di chuyển dọc theo đường ngang sang Đô la Mỹ, phần trăm thay đổi được hiển thị trong ô sẽ đại diện cho EUR (đồng tiền cơ sở)/USD (đồng tiền định giá).
EUR/USD giao dịch trong phạm vi giao dịch của thứ Hai quanh mức 1,0300 trong phiên giao dịch Bắc Mỹ vào thứ Ba. Triển vọng của cặp tiền tệ chính vẫn giảm khi đường trung bình động hàm mũ (EMA) 50 ngày quanh mức 1,0430 tiếp tục là một rào cản lớn đối với phe đầu cơ giá lên của đồng euro.
Chỉ số sức mạnh tương đối (RSI) 14 ngày dao động trong khoảng 40,00-60,00, cho thấy xu hướng đi ngang.
Nhìn xuống, mức thấp ngày 13 tháng 1 là 1,0177 và mức hỗ trợ tâm lý 1,0100 sẽ đóng vai trò là các vùng hỗ trợ chính cho cặp tiền này. Ngược lại, mức kháng cự tâm lý 1,0500 sẽ là rào cản chính cho phe đầu cơ giá lên của đồng euro.
Chính sách tiền tệ tại Hoa Kỳ được định hình bởi Cục Dự trữ Liên bang (Fed). Fed có hai nhiệm vụ: đạt được sự ổn định giá cả và thúc đẩy việc làm đầy đủ. Công cụ chính của Fed để đạt được các mục tiêu này là điều chỉnh lãi suất. Khi giá cả tăng quá nhanh và lạm phát cao hơn mục tiêu 2% của Fed, Fed sẽ tăng lãi suất, làm tăng chi phí đi vay trên toàn bộ nền kinh tế. Điều này dẫn đến đồng Đô la Mỹ (USD) mạnh hơn vì khiến Hoa Kỳ trở thành nơi hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư quốc tế gửi tiền của họ. Khi lạm phát giảm xuống dưới 2% hoặc Tỷ lệ thất nghiệp quá cao, Fed có thể hạ lãi suất để khuyến khích đi vay, điều này gây áp lực lên Đồng bạc xanh.
Cục Dự trữ Liên bang (Fed) tổ chức tám cuộc họp chính sách mỗi năm, trong đó Ủy ban Thị trường Mở Liên bang (FOMC) đánh giá các điều kiện kinh tế và đưa ra các quyết định về chính sách tiền tệ. FOMC có sự tham dự của mười hai quan chức Fed – bảy thành viên của Hội đồng Thống đốc, Thống đốc Ngân hàng Dự trữ Liên bang New York và bốn trong số mười một Thống đốc Ngân hàng Dự trữ khu vực còn lại, những người phục vụ nhiệm kỳ một năm theo chế độ luân phiên.
Trong những tình huống cực đoan, Cục Dự trữ Liên bang có thể dùng đến một chính sách có tên là Nới lỏng định lượng (QE). QE là quá trình mà Fed tăng đáng kể dòng tín dụng trong một hệ thống tài chính bị kẹt. Đây là một biện pháp chính sách không theo tiêu chuẩn được sử dụng trong các cuộc khủng hoảng hoặc khi lạm phát cực kỳ thấp. Đây là vũ khí được Fed lựa chọn trong cuộc Đại khủng hoảng tài chính năm 2008. Điều này liên quan đến việc Fed in thêm Đô la và sử dụng chúng để mua trái phiếu cấp cao từ các tổ chức tài chính. QE thường làm suy yếu Đồng đô la Mỹ.
Thắt chặt định lượng (QT) là quá trình ngược lại của Nới lỏng định lượng (QE), theo đó Cục Dự trữ Liên bang ngừng mua trái phiếu từ các tổ chức tài chính và không tái đầu tư số tiền gốc từ các trái phiếu mà họ nắm giữ đến hạn để mua trái phiếu mới. Thông thường, điều này có lợi cho giá trị của đồng đô la Mỹ.