Sau đây là những thông tin bạn cần biết vào thứ năm, ngày 15 tháng 8:
Đồng đô la Mỹ (USD) tích lũy đà giảm hàng tuần so với các đồng tiền chính vào đầu ngày thứ năm. Trong nửa cuối ngày, lịch kinh tế của Mỹ sẽ công bố dữ liệu Số đơn yêu cầu trợ cấp thất nghiệp lần đầu hàng tuần, Doanh số bán lẻ và Sản lượng công nghiệp trong tháng 7. Các cuộc khảo sát sản xuất từ các ngân hàng Dự trữ Liên bang (Fed) khu vực và bình luận từ các nhà hoạch định chính sách của Fed cũng sẽ được những người tham gia thị trường theo dõi chặt chẽ.
USD đã không thu hút được người mua vào thứ tư sau khi dữ liệu do Cục Thống kê Lao động Mỹ công bố cho thấy Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) và CPI cơ bản đều tăng 0,2% theo tháng trong tháng 7, đúng như dự kiến. Chỉ số USD đóng cửa ngày giao dịch thứ tư liên tiếp trong sắc đỏ vào thứ tư và lợi suất trái phiếu chính phủ Mỹ kỳ hạn 10 năm chuẩn đã giảm xuống còn 3,8%. Vào đầu ngày thứ năm, Chỉ số USD giữ ổn định ở mức khoảng 102,50 và lợi suất trái phiếu kỳ hạn 10 năm đi ngang ở mức trên 3,8%. Trong khi đó, hợp đồng tương lai chỉ số chứng khoán Mỹ tăng nhẹ sau khi các chỉ số chính của Phố Wall ghi nhận mức tăng khiêm tốn.
Bảng bên dưới cho thấy tỷ lệ phần trăm thay đổi của đô la Mỹ (USD) so với các loại tiền tệ chính được niêm yết trong tuần này. Đô la Mỹ là đồng tiền yếu nhất so với đồng euro.
USD | EUR | GBP | JPY | CAD | AUD | NZD | CHF | |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|
USD | -0.88% | -0.73% | 0.43% | -0.23% | -0.69% | -0.06% | 0.06% | |
EUR | 0.88% | 0.18% | 1.30% | 0.66% | 0.08% | 0.83% | 0.97% | |
GBP | 0.73% | -0.18% | 1.36% | 0.48% | -0.11% | 0.64% | 0.79% | |
JPY | -0.43% | -1.30% | -1.36% | -0.63% | -1.18% | -0.48% | -0.38% | |
CAD | 0.23% | -0.66% | -0.48% | 0.63% | -0.52% | 0.17% | 0.32% | |
AUD | 0.69% | -0.08% | 0.11% | 1.18% | 0.52% | 0.75% | 0.89% | |
NZD | 0.06% | -0.83% | -0.64% | 0.48% | -0.17% | -0.75% | 0.14% | |
CHF | -0.06% | -0.97% | -0.79% | 0.38% | -0.32% | -0.89% | -0.14% |
Bản đồ nhiệt hiển thị phần trăm thay đổi của các loại tiền tệ chính so với nhau. Đơn vị tiền tệ cơ sở được chọn từ cột bên trái, trong khi loại tiền định giá được chọn từ hàng trên cùng. Ví dụ: nếu bạn chọn đồng euro từ cột bên trái và di chuyển dọc theo đường ngang đến đồng yên Nhật, phần trăm thay đổi được hiển thị trong ô sẽ đại diện cho đồng EUR (cơ sở)/JPY (báo giá).
Văn phòng Thống kê Quốc gia Anh đã báo cáo vào buổi sáng tại Châu Âu rằng Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Anh đã tăng trưởng với tốc độ hàng năm là 0,9% trong quý 2. Con số này theo sau mức tăng trưởng 0,3% được ghi nhận trong quý 1 và phù hợp với kỳ vọng của thị trường. Dữ liệu khác từ Anh cho thấy Sản xuất sản xuất và Sản xuất công nghiệp lần lượt tăng 1,1% và 0,8% theo tháng vào tháng 6. GBP/USD tăng nhẹ sau những dữ liệu này và lần cuối được nhìn thấy giao dịch ở mức khoảng 1,2850.
Trong giờ giao dịch tại Châu Á, dữ liệu từ Úc cho thấy Tỷ lệ thất nghiệp đã tăng lên 4,2% vào tháng 7 từ mức 4,1% vào tháng 6. Thay đổi số người có việc làm trong cùng kỳ đạt +58,2 nghìn, vượt qua kỳ vọng của thị trường là 20 nghìn. Sau khi đóng cửa ở mức âm vào thứ Tư, AUD/USD đã tăng lực kéo và tăng lên trên 0,6600. Trong khi đó, Cục Thống kê Quốc gia Trung Quốc thông báo rằng Doanh số bán lẻ tăng 2,7% theo năm vào tháng 7, tăng so với mức tăng 2% được ghi nhận vào tháng 6.
Văn phòng Nội các Nhật Bản đã báo cáo trong phiên giao dịch đầu tiên của châu Á rằng GDP đã tăng trưởng với tốc độ hàng năm là 3,1% trong quý thứ hai sau mức giảm 2,3% được ghi nhận trong quý trước. USD/JPY đã không có động thái quyết định theo cả hai hướng sau dữ liệu này và lần cuối cùng được nhìn thấy đi ngang trong phạm vi hàng tuần ở mức trên 147,00 một chút.
EUR/USD đã tập hợp động lực tăng giá và đạt mức cao nhất trong năm 2024 gần 1,1050 vào thứ Tư. Cặp tiền tệ này đã điều chỉnh kỹ thuật vào sáng thứ Năm tại châu Âu nhưng vẫn giữ được trên 1,1000.
Vàng đã gặp khó khăn trong việc thu hút người mua vào thứ Tư và mất hơn 0,5% trong ngày. XAU/USD giữ vững lập trường của mình trong phiên giao dịch châu Âu và giao dịch trong vùng tích cực trên 2.450$.