
Thống đốc Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) Jerome Powell đã nhấn mạnh sự cân bằng mong manh giữa kiểm soát lạm phát và rủi ro thị trường lao động trong một bài phát biểu tại hội nghị Hiệp hội Kinh tế Doanh nghiệp Quốc gia (NABE) ở Philadelphia. Ông cho biết dữ liệu vẫn cho thấy sự tăng trưởng ổn định, nhưng các nhà hoạch định chính sách thừa nhận những thách thức ngày càng gia tăng trong lĩnh vực việc làm và giá cả
Con đường tương lai của chính sách tiền tệ sẽ được điều chỉnh bởi dữ liệu và đánh giá rủi ro.
Dữ liệu trước khi chính phủ Mỹ đóng cửa cho thấy tăng trưởng có thể tốt hơn mong đợi.
Hiện tại không có con đường nào không có rủi ro cho chính sách tiền tệ.
Dữ liệu hiện có cho thấy nền kinh tế hiện tại đang ở vị trí như tháng 9.
Các rủi ro giảm đối với thị trường việc làm của Mỹ đã gia tăng.
Các rủi ro gia tăng đối với thị trường việc làm đã biện minh cho việc cắt giảm lãi suất vào tháng 9.
Dữ liệu có sẵn cho thấy thuế quan đang đẩy giá cả tăng lên.
Dữ liệu gần đây chỉ ra một bức tranh việc làm với tỷ lệ tuyển dụng thấp và tỷ lệ sa thải thấp.
Fed có các dữ liệu khác ngoài các nguồn chính phủ để sử dụng.
Có một rủi ro rằng việc thuế quan chậm trễ sẽ bắt đầu trông giống như lạm phát kéo dài.
Thị trường lao động đã thể hiện rủi ro giảm đáng kể.
Khi các rủi ro trở nên cân bằng hơn, chính sách cần phải chuyển sang một lập trường trung lập hơn.
Nếu Fed hành động quá nhanh, họ có thể để công việc kiểm soát lạm phát chưa hoàn thành.
Dữ liệu kể từ cuộc họp tháng 7 cho thấy thị trường lao động đã giảm đáng kể.
Fed sẽ không cố gắng xác định tỷ lệ hòa vốn của việc làm; sai số chuẩn có thể lên tới năm mươi nghìn.
Tỷ lệ hòa vốn của tăng trưởng việc làm đã giảm rất nhiều.
Nghiên cứu chỉ ra rằng có độ trễ lâu hơn để chính sách ảnh hưởng đến việc làm và lạm phát.
Có dữ liệu hợp lý cho tình trạng của thị trường việc làm, mặc dù dữ liệu tư nhân thường được sử dụng như một bổ sung.
Các thay thế tốt hơn cho thị trường việc làm hơn là cho lạm phát.
Fed sẽ bắt đầu bỏ lỡ các dữ liệu quan trọng, và điều kiện sẽ trở nên khó khăn hơn nếu việc đóng cửa kéo dài và dữ liệu tháng 10 bị trì hoãn.
Dữ liệu hoạt động kinh tế đang gây bất ngờ theo chiều hướng tích cực, tạo ra một số căng thẳng với dữ liệu thị trường lao động.
Vẫn còn quá sớm để đánh giá tác động của AI đối với năng suất.
Đô la Mỹ (USD) tăng tốc sự thoái lui hàng ngày khi các nhà đầu tư tiếp tục đánh giá nhận xét của Thống đốc Powell, với chỉ số Đô la Mỹ (DXY) thách thức khu vực 99,00 trong bối cảnh thua lỗ đáng kể.
Bảng bên dưới hiển thị tỷ lệ phần trăm thay đổi của Đô la Mỹ (USD) so với các loại tiền tệ chính được liệt kê hôm nay. Đô la Mỹ mạnh nhất so với Đô la Úc.
| USD | EUR | GBP | JPY | CAD | AUD | NZD | CHF | |
|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
| USD | -0.35% | 0.14% | -0.35% | 0.03% | 0.31% | 0.07% | -0.40% | |
| EUR | 0.35% | 0.49% | 0.02% | 0.37% | 0.71% | 0.43% | -0.05% | |
| GBP | -0.14% | -0.49% | -0.46% | -0.10% | 0.21% | -0.02% | -0.54% | |
| JPY | 0.35% | -0.02% | 0.46% | 0.39% | 0.64% | 0.39% | -0.11% | |
| CAD | -0.03% | -0.37% | 0.10% | -0.39% | 0.32% | 0.04% | -0.44% | |
| AUD | -0.31% | -0.71% | -0.21% | -0.64% | -0.32% | -0.28% | -0.76% | |
| NZD | -0.07% | -0.43% | 0.02% | -0.39% | -0.04% | 0.28% | -0.49% | |
| CHF | 0.40% | 0.05% | 0.54% | 0.11% | 0.44% | 0.76% | 0.49% |
Bản đồ nhiệt hiển thị phần trăm thay đổi của các loại tiền tệ chính so với nhau. Đồng tiền cơ sở được chọn từ cột bên trái, và đồng tiền định giá được chọn từ hàng trên cùng. Ví dụ: nếu bạn chọn Đô la Mỹ từ cột bên trái và di chuyển dọc theo đường ngang sang Đồng Yên Nhật, phần trăm thay đổi được hiển thị trong ô sẽ đại diện cho USD (đồng tiền cơ sở)/JPY (đồng tiền định giá).
Phần này dưới đây được công bố như một bản xem trước bài phát biểu của Thống đốc Cục Dự trữ Liên bang Jerome Powell tại Hội nghị thường niên của Hiệp hội Kinh tế Doanh nghiệp Quốc gia (NABE).
Thống đốc Cục Dự trữ Liên bang (Fed) Jerome Powell sẽ có bài phát biểu về Triển vọng Kinh tế và Chính sách Tiền tệ tại Hội nghị thường niên của Hiệp hội Kinh tế Doanh nghiệp Quốc gia (NABE) ở Philadelphia vào thứ Ba. Với việc chính phủ Mỹ đóng cửa khiến các dữ liệu quan trọng bị trì hoãn, các bình luận của Powell có thể ảnh hưởng đến giá trị của Đô la Mỹ (USD) trong thời gian tới.
Mặc dù các bình luận gần đây từ các quan chức Fed có phần trái chiều, công cụ CME FedWatch cho thấy thị trường hiện đang hoàn toàn định giá một đợt cắt giảm 25 điểm cơ bản (bps) vào tháng 10 và thấy khả năng gần 90% cho một đợt cắt giảm 25 bps nữa vào tháng 12.
Thống đốc Fed Michael Barr cho biết ông hoài nghi rằng Fed có thể nhìn qua lạm phát do thuế quan và cho biết mục tiêu lạm phát đang đối mặt với những rủi ro đáng kể. Ông cũng cho biết một số yếu tố có thể làm giảm những rủi ro đó. Tương tự, Thống đốc Fed St. Louis Alberto Musalem lập luận rằng sẽ rất khó cho Fed phản ứng với những biến động ngắn hạn của thị trường lao động nếu kỳ vọng lạm phát trở nên không ổn định.
Về một ghi chú ôn hòa hơn, Thống đốc Fed San Francisco Mary Daly cho biết lạm phát đã đến mức thấp hơn nhiều so với lo ngại và cho biết sự giảm nhẹ của thị trường lao động trông có vẻ đáng lo ngại nếu họ không quản lý được các rủi ro. Hơn nữa, Thống đốc Fed Philadelphia Anna Paulson cho biết trong bài phát biểu công khai đầu tiên của mình rằng bà không kỳ vọng thuế quan sẽ gây ra lạm phát kéo dài và thêm rằng bà thấy rủi ro thị trường lao động đang gia tăng.
Trong trường hợp Powell gợi ý rằng họ sẽ cần tiếp tục nới lỏng chính sách để phản ứng với tình hình xấu đi trong thị trường lao động, USD có thể gặp khó khăn trong việc tìm kiếm nhu cầu. Tuy nhiên, vị trí thị trường cho thấy rằng USD không còn nhiều không gian để giảm giá ngay cả khi một đợt cắt giảm lãi suất vào tháng 12 đã được định giá hoàn toàn.
Mặt khác, USD có thể tiếp tục vượt trội hơn các đối thủ nếu Powell áp dụng một tông giọng thận trọng về các đợt cắt giảm lãi suất liên tiếp, viện dẫn sự không chắc chắn do thiếu dữ liệu lạm phát và việc làm quan trọng, cũng như khả năng tái leo thang của xung đột thương mại Mỹ-Trung.
Chính sách tiền tệ tại Hoa Kỳ được định hình bởi Cục Dự trữ Liên bang (Fed). Fed có hai nhiệm vụ: đạt được sự ổn định giá cả và thúc đẩy việc làm đầy đủ. Công cụ chính của Fed để đạt được các mục tiêu này là điều chỉnh lãi suất. Khi giá cả tăng quá nhanh và lạm phát cao hơn mục tiêu 2% của Fed, Fed sẽ tăng lãi suất, làm tăng chi phí đi vay trên toàn bộ nền kinh tế. Điều này dẫn đến đồng Đô la Mỹ (USD) mạnh hơn vì khiến Hoa Kỳ trở thành nơi hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư quốc tế gửi tiền của họ. Khi lạm phát giảm xuống dưới 2% hoặc Tỷ lệ thất nghiệp quá cao, Fed có thể hạ lãi suất để khuyến khích đi vay, điều này gây áp lực lên Đồng bạc xanh.
Cục Dự trữ Liên bang (Fed) tổ chức tám cuộc họp chính sách mỗi năm, trong đó Ủy ban Thị trường Mở Liên bang (FOMC) đánh giá các điều kiện kinh tế và đưa ra các quyết định về chính sách tiền tệ. FOMC có sự tham dự của mười hai quan chức Fed – bảy thành viên của Hội đồng Thống đốc, Thống đốc Ngân hàng Dự trữ Liên bang New York và bốn trong số mười một Thống đốc Ngân hàng Dự trữ khu vực còn lại, những người phục vụ nhiệm kỳ một năm theo chế độ luân phiên.
Trong những tình huống cực đoan, Cục Dự trữ Liên bang có thể dùng đến một chính sách có tên là Nới lỏng định lượng (QE). QE là quá trình mà Fed tăng đáng kể dòng tín dụng trong một hệ thống tài chính bị kẹt. Đây là một biện pháp chính sách không theo tiêu chuẩn được sử dụng trong các cuộc khủng hoảng hoặc khi lạm phát cực kỳ thấp. Đây là vũ khí được Fed lựa chọn trong cuộc Đại khủng hoảng tài chính năm 2008. Điều này liên quan đến việc Fed in thêm Đô la và sử dụng chúng để mua trái phiếu cấp cao từ các tổ chức tài chính. QE thường làm suy yếu Đồng đô la Mỹ.
Thắt chặt định lượng (QT) là quá trình ngược lại của Nới lỏng định lượng (QE), theo đó Cục Dự trữ Liên bang ngừng mua trái phiếu từ các tổ chức tài chính và không tái đầu tư số tiền gốc từ các trái phiếu mà họ nắm giữ đến hạn để mua trái phiếu mới. Thông thường, điều này có lợi cho giá trị của đồng đô la Mỹ.