Vào thứ Năm, chúng ta sẽ nhận được thông tin mới nhất về ngành dịch vụ của Mỹ khi Viện Quản lý Nguồn cung công bố chỉ số PMI ngành dịch vụ tháng Tám. Các nhà kinh tế cho rằng chỉ số này sẽ tăng lên 51 từ mức 50,1 của tháng Bảy. Nếu họ đúng, đó sẽ là tháng thứ ba liên tiếp mà ngành này tăng trưởng, một lời nhắc nhở khác về sức mạnh của nó và một sự nâng đỡ nhỏ cho niềm tin vào nền kinh tế rộng lớn hơn.
Tuy nhiên, các chi tiết từ tháng Bảy không hoàn toàn tích cực. Đà tuyển dụng đã giảm, với Chỉ số Việc làm ISM quay trở lại vùng thu hẹp ở mức 46,4. Số đơn đặt hàng mới cũng mất một chút động lực, giảm xuống 50,3, điều này gợi ý rằng nhu cầu có thể đang hạ nhiệt. Mặc dù tăng trưởng ổn định, chỉ số Giá đã trả tăng lên 69,9 cho thấy áp lực lạm phát dai dẳng.
Lạm phát ở Mỹ vẫn đang cao hơn mục tiêu 2% của Fed, và điều đó khiến các nhà hoạch định chính sách lo lắng, đặc biệt là khi các tác động đầy đủ của các mức thuế gần đây vẫn chưa lan tỏa qua nền kinh tế.
Báo cáo Chi tiêu Tiêu dùng Cá nhân (PCE) mới nhất đã nhấn mạnh điểm này. Lạm phát cơ bản, không bao gồm thực phẩm và năng lượng, đã tăng 2,9% so với cùng kỳ năm ngoái trong tháng Bảy, tăng từ 2,8% trong tháng Sáu và cao hơn một chút so với hầu hết các dự báo. Lạm phát PCE tổng thể giữ ổn định ở mức 2,6% hàng năm, cho thấy ít dấu hiệu giảm bớt.
Trong bối cảnh đó, một chỉ số PMI ngành dịch vụ ISM phù hợp với kỳ vọng có lẽ sẽ không làm đồng Đô la Mỹ biến động nhiều. Nó sẽ chỉ xác nhận bức tranh về một nền kinh tế vẫn kiên cường nhưng vẫn đang vật lộn với áp lực giá cả dai dẳng. Tuy nhiên, một báo cáo yếu hơn mong đợi có thể làm lung lay niềm tin và khiến các nhà đầu tư cắt giảm nắm giữ USD của họ vì lo ngại rằng tăng trưởng đang mất đà.
Viện Quản lý Nguồn cung (ISM) sẽ công bố Chỉ số Nhà quản lý Mua hàng ngành dịch vụ (PMI) vào thứ Năm lúc 14:00 GMT.
Pablo Piovano, Nhà phân tích cao cấp tại FXStreet, lưu ý rằng áp lực bán trở lại có thể đầu tiên kéo EUR/USD xuống mức đáy hàng tuần tại 1,1574 (27 tháng Tám), trước khi chạm mức thấp hàng tháng tại 1,1391 (1 tháng Tám). Một sự phá vỡ dưới mức này, ông nói, sẽ đưa mức đáy cuối tháng Năm tại 1,1210 trở lại vào tầm ngắm.
Ngược lại, nếu cặp tiền này lấy lại sức mạnh, nó có thể kiểm tra lại mức trần tháng Tám tại 1,1742 (22 tháng Tám), tiếp theo là mức cao cuối tháng Bảy tại 1,1788 (24 tháng Bảy), với đỉnh năm 2025 ở mức 1,1830 không xa phía sau. Xóa bỏ khu vực đó, Piovano lập luận, có thể mở ra cánh cửa cho một đợt tăng hướng tới mức tâm lý quan trọng 1,2000.
Tổng thể, ông thêm vào, miễn là EUR/USD vẫn ở trên Đường trung bình động giản đơn (SMA) 200 ngày tại 1,1045, triển vọng tích cực rộng lớn cho cặp tiền này vẫn được giữ nguyên.
Chỉ số ISM phi sản xuất do Viện Quản lý Cung ứng (ISM) công bố cho thấy các điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực phi sản xuất của Hoa Kỳ, có tính đến các kỳ vọng về sản xuất trong tương lai, đơn đặt hàng mới, hàng tồn kho, việc làm và vận chuyển. Đây là một chỉ báo quan trọng về điều kiện kinh tế tổng thể ở Mỹ. Chỉ số Đơn đặt hàng mới ngành dịch vụ của ISM thể hiện tâm lý kinh doanh liên quan đến các điều kiện thị trường trong tương lai. Kết quả trên 50 là dấu hiệu tích cực (hoặc xu hướng tăng) đối với USD.
Đọc thêmLần phát hành gần nhất: Th 3 thg 8 05, 2025 14:00
Tần số: Hàng tháng
Thực tế: 50.3
Đồng thuận: -
Trước đó: 51.3
Nguồn: Institute for Supply Management
Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của một quốc gia đo lường tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế trong một khoảng thời gian nhất định, thường là một quý. Các số liệu đáng tin cậy nhất là các số liệu so sánh GDP với quý trước, ví dụ: Quý 2 năm 2023 so với Quý 1 năm 2023 hoặc với cùng kỳ năm trước, ví dụ: Quý 2 năm 2023 so với Quý 2 năm 2022. Các số liệu GDP theo quý được tính theo năm sẽ ngoại suy tốc độ tăng trưởng của quý như thể tốc độ này không đổi trong suốt phần còn lại của năm. Tuy nhiên, những số liệu này có thể gây hiểu lầm nếu các cú sốc tạm thời tác động đến tăng trưởng trong một quý nhưng không có khả năng kéo dài cả năm - chẳng hạn như đã xảy ra trong quý đầu tiên của năm 2020 khi đại dịch covid bùng phát, khi tăng trưởng giảm mạnh.
Kết quả GDP cao hơn thường là tích cực cho đồng tiền của một quốc gia vì nó phản ánh nền kinh tế đang phát triển, có nhiều khả năng sản xuất hàng hóa và dịch vụ có thể xuất khẩu, cũng như thu hút đầu tư nước ngoài cao hơn. Tương tự như vậy, khi GDP giảm, thường là tiêu cực cho đồng tiền. Khi nền kinh tế tăng trưởng, mọi người có xu hướng chi tiêu nhiều hơn, dẫn đến lạm phát. Ngân hàng trung ương của quốc gia đó sau đó phải tăng lãi suất để chống lại lạm phát với tác dụng phụ là thu hút thêm dòng vốn từ các nhà đầu tư toàn cầu, do đó giúp đồng tiền địa phương tăng giá.
Khi nền kinh tế tăng trưởng và GDP tăng, mọi người có xu hướng chi tiêu nhiều hơn dẫn đến lạm phát. Ngân hàng trung ương của quốc gia sau đó phải đưa ra lãi suất để chống lại lạm phát. Lãi suất cao hơn là tiêu cực đối với Vàng vì làm tăng chi phí cơ hội của việc nắm giữ Vàng so với việc gửi tiền vào tài khoản tiền gửi bằng tiền mặt. Do đó, tốc độ tăng trưởng GDP cao hơn thường là yếu tố giảm giá đối với giá Vàng.