
Dưới đây là những gì bạn cần biết vào thứ Hai, ngày 3 tháng 11:
Đồng đô la Mỹ (USD) bắt đầu tuần mới một cách tương đối bình tĩnh sau khi vượt trội hơn các đối thủ chính trong tuần trước. Vào nửa cuối ngày, Viện Quản lý Cung ứng (ISM) sẽ công bố dữ liệu Chỉ số người quản lý mua hàng (PMI) ngành sản xuất của Mỹ cho tháng 10.
Bảng bên dưới hiển thị tỷ lệ phần trăm thay đổi của Đô la Mỹ (USD) so với các loại tiền tệ chính được liệt kê 7 ngày trước. Đô la Mỹ mạnh nhất so với Bảng Anh.
| USD | EUR | GBP | JPY | CAD | AUD | NZD | CHF | |
|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
| USD | 0.83% | 1.34% | 0.80% | 0.01% | -0.26% | 0.91% | 0.95% | |
| EUR | -0.83% | 0.52% | 0.07% | -0.81% | -1.01% | 0.07% | 0.12% | |
| GBP | -1.34% | -0.52% | -0.55% | -1.32% | -1.51% | -0.44% | -0.44% | |
| JPY | -0.80% | -0.07% | 0.55% | -0.88% | -1.15% | -0.03% | 0.03% | |
| CAD | -0.01% | 0.81% | 1.32% | 0.88% | -0.32% | 0.90% | 0.90% | |
| AUD | 0.26% | 1.01% | 1.51% | 1.15% | 0.32% | 1.08% | 1.09% | |
| NZD | -0.91% | -0.07% | 0.44% | 0.03% | -0.90% | -1.08% | 0.00% | |
| CHF | -0.95% | -0.12% | 0.44% | -0.03% | -0.90% | -1.09% | -0.00% |
Bản đồ nhiệt hiển thị phần trăm thay đổi của các loại tiền tệ chính so với nhau. Đồng tiền cơ sở được chọn từ cột bên trái, và đồng tiền định giá được chọn từ hàng trên cùng. Ví dụ: nếu bạn chọn Đô la Mỹ từ cột bên trái và di chuyển dọc theo đường ngang sang Đồng Yên Nhật, phần trăm thay đổi được hiển thị trong ô sẽ đại diện cho USD (đồng tiền cơ sở)/JPY (đồng tiền định giá).
Sau những bình luận thận trọng của Thống đốc Cục Dự trữ Liên bang (Fed) Jerome Powell về việc nới lỏng chính sách vào tuần trước, một số nhà hoạch định chính sách của Fed đã đồng tình với ông khi lưu ý rằng có thể không dễ dàng để cắt giảm lãi suất một lần nữa vào tháng 12. Do đó, Chỉ số USD đã duy trì đà tăng và leo lên mức cao nhất kể từ đầu tháng 8 trên 99,80 vào thứ Sáu. Sáng thứ Hai, chỉ số này vẫn ở trong giai đoạn củng cố quanh mức 99,70. Trong khi đó, hợp đồng tương lai chỉ số chứng khoán Mỹ giao dịch trái chiều trong buổi sáng châu Âu sau khi các chỉ số chính của Phố Wall ghi nhận mức tăng nhỏ vào thứ Sáu.
Dữ liệu từ Trung Quốc cho thấy vào đầu ngày rằng hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực sản xuất đã mở rộng với tốc độ khiêm tốn trong tháng 10, với Chỉ số PMI ngành sản xuất RatingDog đạt 50,6. Đọc này không đạt kỳ vọng của thị trường là 50,9.
Sau khi đóng cửa trong vùng tiêu cực trong ba ngày liên tiếp, EUR/USD tìm thấy chỗ đứng vào thứ Hai và dao động trong một khoảng hẹp dưới 1,1550.
AUD/USD bám giữ những mức tăng phục hồi nhỏ gần 0,6550 sau khi kết thúc tuần trước gần như không thay đổi. Trong phiên giao dịch châu Á vào thứ Ba, Ngân hàng Dự trữ Úc (RBA) sẽ công bố các quyết định chính sách tiền tệ. Thị trường kỳ vọng RBA sẽ giữ nguyên lãi suất chính sách ở mức 3,6%.
USD/JPY đã leo lên mức cao nhất kể từ tháng 2 gần 154,50 vào tuần trước. Với việc các quan chức Nhật Bản can thiệp bằng lời nói khi lưu ý rằng họ tiếp tục theo dõi chặt chẽ thị trường ngoại hối, cặp tiền này đã ổn định vào cuối tuần. Sáng thứ Hai, USD/JPY giao dịch đi ngang, hơi trên 154,00.
GBP/USD đã mất hơn 1% vào tuần trước và đã giảm xuống dưới 1,3100 vào thứ Sáu. Cặp tiền này gặp khó khăn trong việc thu thập đà phục hồi vào thứ Hai và giao dịch gần 1,3150.
Vàng vẫn tương đối bình tĩnh vào thứ Sáu nhưng cuối cùng đã mất hơn 2% theo tuần. XAU/USD giữ vững trên 4.000$ để bắt đầu tuần mới.
Chính sách tiền tệ tại Hoa Kỳ được định hình bởi Cục Dự trữ Liên bang (Fed). Fed có hai nhiệm vụ: đạt được sự ổn định giá cả và thúc đẩy việc làm đầy đủ. Công cụ chính của Fed để đạt được các mục tiêu này là điều chỉnh lãi suất. Khi giá cả tăng quá nhanh và lạm phát cao hơn mục tiêu 2% của Fed, Fed sẽ tăng lãi suất, làm tăng chi phí đi vay trên toàn bộ nền kinh tế. Điều này dẫn đến đồng Đô la Mỹ (USD) mạnh hơn vì khiến Hoa Kỳ trở thành nơi hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư quốc tế gửi tiền của họ. Khi lạm phát giảm xuống dưới 2% hoặc Tỷ lệ thất nghiệp quá cao, Fed có thể hạ lãi suất để khuyến khích đi vay, điều này gây áp lực lên Đồng bạc xanh.
Cục Dự trữ Liên bang (Fed) tổ chức tám cuộc họp chính sách mỗi năm, trong đó Ủy ban Thị trường Mở Liên bang (FOMC) đánh giá các điều kiện kinh tế và đưa ra các quyết định về chính sách tiền tệ. FOMC có sự tham dự của mười hai quan chức Fed – bảy thành viên của Hội đồng Thống đốc, Thống đốc Ngân hàng Dự trữ Liên bang New York và bốn trong số mười một Thống đốc Ngân hàng Dự trữ khu vực còn lại, những người phục vụ nhiệm kỳ một năm theo chế độ luân phiên.
Trong những tình huống cực đoan, Cục Dự trữ Liên bang có thể dùng đến một chính sách có tên là Nới lỏng định lượng (QE). QE là quá trình mà Fed tăng đáng kể dòng tín dụng trong một hệ thống tài chính bị kẹt. Đây là một biện pháp chính sách không theo tiêu chuẩn được sử dụng trong các cuộc khủng hoảng hoặc khi lạm phát cực kỳ thấp. Đây là vũ khí được Fed lựa chọn trong cuộc Đại khủng hoảng tài chính năm 2008. Điều này liên quan đến việc Fed in thêm Đô la và sử dụng chúng để mua trái phiếu cấp cao từ các tổ chức tài chính. QE thường làm suy yếu Đồng đô la Mỹ.
Thắt chặt định lượng (QT) là quá trình ngược lại của Nới lỏng định lượng (QE), theo đó Cục Dự trữ Liên bang ngừng mua trái phiếu từ các tổ chức tài chính và không tái đầu tư số tiền gốc từ các trái phiếu mà họ nắm giữ đến hạn để mua trái phiếu mới. Thông thường, điều này có lợi cho giá trị của đồng đô la Mỹ.