
Dưới đây là những gì bạn cần biết vào thứ Sáu, ngày 31 tháng 10:
Đồng Đô la Mỹ (USD) vẫn giữ vững trước các đối thủ vào đầu ngày thứ Sáu, sau đà tăng kéo dài hai ngày đã khiến Chỉ số USD tăng lên mức cao nhất kể từ đầu tháng Tám. Lịch kinh tế châu Âu sẽ công bố dữ liệu lạm phát sơ bộ tháng Mười và một số nhà hoạch định chính sách của Cục Dự trữ Liên bang (Fed) sẽ có bài phát biểu trong nửa cuối ngày.
Bảng bên dưới hiển thị tỷ lệ phần trăm thay đổi của Đô la Mỹ (USD) so với các loại tiền tệ chính được liệt kê tuần này. Đô la Mỹ mạnh nhất so với Bảng Anh.
| USD | EUR | GBP | JPY | CAD | AUD | NZD | CHF | |
|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
| USD | 0.65% | 1.38% | 0.86% | -0.04% | 0.03% | 1.03% | 0.82% | |
| EUR | -0.65% | 0.75% | 0.30% | -0.68% | -0.54% | 0.38% | 0.17% | |
| GBP | -1.38% | -0.75% | -0.55% | -1.42% | -1.27% | -0.37% | -0.61% | |
| JPY | -0.86% | -0.30% | 0.55% | -1.01% | -0.93% | 0.02% | -0.17% | |
| CAD | 0.04% | 0.68% | 1.42% | 1.01% | 0.01% | 1.07% | 0.82% | |
| AUD | -0.03% | 0.54% | 1.27% | 0.93% | -0.01% | 0.92% | 0.67% | |
| NZD | -1.03% | -0.38% | 0.37% | -0.02% | -1.07% | -0.92% | -0.25% | |
| CHF | -0.82% | -0.17% | 0.61% | 0.17% | -0.82% | -0.67% | 0.25% |
Bản đồ nhiệt hiển thị phần trăm thay đổi của các loại tiền tệ chính so với nhau. Đồng tiền cơ sở được chọn từ cột bên trái, và đồng tiền định giá được chọn từ hàng trên cùng. Ví dụ: nếu bạn chọn Đô la Mỹ từ cột bên trái và di chuyển dọc theo đường ngang sang Đồng Yên Nhật, phần trăm thay đổi được hiển thị trong ô sẽ đại diện cho USD (đồng tiền cơ sở)/JPY (đồng tiền định giá).
Ngân hàng Trung ương Châu Âu (ECB) đã thông báo vào thứ Năm rằng họ giữ nguyên lãi suất chính sau cuộc họp chính sách tháng Mười, như mong đợi. Trong tuyên bố chính sách, ECB nhấn mạnh rằng họ không "cam kết trước" với một lộ trình lãi suất cụ thể. Khi trả lời các câu hỏi từ báo chí, Chủ tịch ECB Christine Lagarde lưu ý rằng họ đang ở trong một giai đoạn bất ổn lớn và thêm rằng một đồng Euro (EUR) mạnh hơn có thể làm giảm lạm phát nhiều hơn so với dự kiến. Sau khi mất hơn 0,4% vào thứ Tư, EUR/USD đã kéo dài đà giảm vào thứ Năm và mất khoảng 0,3% trong ngày. Vào đầu thứ Sáu, cặp tiền này dao động trong một kênh hẹp trên mức 1,1550. Trên cơ sở hàng năm, Chỉ số giá tiêu dùng đã cân đối (HICP) trong khu vực Euro được dự báo là 2,1% trong tháng Mười.
Dữ liệu từ Nhật Bản cho thấy vào đầu thứ Sáu rằng lạm phát hàng năm ở Tokyo, được đo bằng sự thay đổi của Chỉ số giá tiêu dùng (CPI), đã tăng lên 2,8% trong tháng Mười từ 2,5% trong tháng Chín. Sau khi tăng khoảng 1% và leo lên mức cao nhất kể từ đầu tháng Hai gần 154,50 vào thứ Năm, USD/JPY dường như đã bước vào giai đoạn củng cố. Tại thời điểm viết bài, cặp tiền này gần như không thay đổi trong ngày ở mức 154,20. Để phản ứng với sự yếu kém quá mức của đồng Yên Nhật, Bộ trưởng Tài chính Nhật Bản Satsuki Katayama đã can thiệp bằng lời nói vào thứ Sáu, lưu ý rằng "quan trọng cho các đồng tiền di chuyển một cách ổn định, phản ánh các yếu tố cơ bản." Một lần nữa, ông nhắc lại rằng chính phủ đang "theo dõi chặt chẽ các biến động ngoại hối với một cảm giác khẩn trương cao."
Với xác suất cắt giảm lãi suất 25 điểm cơ bản (bps) của Fed trong tháng Mười Hai theo công cụ FedWatch của CME Group giảm xuống dưới 70% từ khoảng 90% trước cuộc họp của Fed vào đầu tuần, USD tiếp tục vượt trội so với các đối thủ. Vào đầu thứ Sáu, Chỉ số USD giữ ổn định trên 99,50, trong khi hợp đồng tương lai chỉ số chứng khoán Mỹ giao dịch trong vùng tích cực.
Bị áp lực bởi sức mạnh USD rộng rãi, GBP/USD đã đóng cửa ngày thứ ba liên tiếp trong vùng tiêu cực vào thứ Tư. Cặp tiền này tương đối yên tĩnh vào buổi sáng châu Âu vào thứ Sáu và giao dịch dưới mức 1,3150, giảm khoảng 1,3% trên cơ sở hàng tuần.
Vàng đã tăng hơn 2% vào thứ Năm và chấm dứt chuỗi bốn ngày giảm giá. XAU/USD dao động ngang trên mức 4.000$ vào đầu thứ Sáu nhưng vẫn trên đà kết thúc tuần thứ hai liên tiếp trong vùng tiêu cực.
Ngân hàng trung ương có nhiệm vụ chính là đảm bảo giá cả ổn định ở một quốc gia hoặc khu vực. Các nền kinh tế liên tục phải đối mặt với lạm phát hoặc giảm phát khi giá của một số hàng hóa và dịch vụ nhất định biến động. Giá cả tăng liên tục đối với cùng một loại hàng hóa có nghĩa là lạm phát, giá cả giảm liên tục đối với cùng một loại hàng hóa có nghĩa là giảm phát. Nhiệm vụ của ngân hàng trung ương là giữ cho nhu cầu phù hợp bằng cách điều chỉnh lãi suất chính sách của mình. Đối với các ngân hàng trung ương lớn nhất như Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ (Fed), Ngân hàng Trung ương Châu Âu (ECB) hoặc Ngân hàng trung ương Anh (BoE), nhiệm vụ là giữ lạm phát ở mức gần 2%.
Ngân hàng trung ương có một công cụ quan trọng để tăng hoặc giảm lạm phát, đó là điều chỉnh lãi suất chính sách chuẩn, thường được gọi là lãi suất. Vào những thời điểm được thông báo trước, ngân hàng trung ương sẽ ban hành một tuyên bố về lãi suất chính sách của mình và đưa ra lý do bổ sung về lý do tại sao họ vẫn giữ nguyên hoặc thay đổi (cắt giảm hoặc tăng lãi suất). Các ngân hàng địa phương sẽ điều chỉnh lãi suất tiết kiệm và cho vay của mình cho phù hợp, điều này sẽ khiến mọi người khó hoặc dễ kiếm tiền từ tiền tiết kiệm của mình hoặc các công ty khó vay vốn và đầu tư vào doanh nghiệp của mình. Khi ngân hàng trung ương tăng đáng kể lãi suất, điều này được gọi là thắt chặt tiền tệ. Khi ngân hàng trung ương cắt giảm lãi suất chuẩn, điều này được gọi là nới lỏng tiền tệ.
Một ngân hàng trung ương thường độc lập về mặt chính trị. Các thành viên của hội đồng chính sách ngân hàng trung ương phải trải qua một loạt các hội đồng và phiên điều trần trước khi được bổ nhiệm vào một ghế trong hội đồng chính sách. Mỗi thành viên trong hội đồng đó thường có một niềm tin nhất định về cách ngân hàng trung ương nên kiểm soát lạm phát và chính sách tiền tệ tiếp theo. Các thành viên muốn có một chính sách tiền tệ rất lỏng lẻo, với lãi suất thấp và cho vay giá rẻ, để thúc đẩy nền kinh tế đáng kể trong khi vẫn hài lòng khi thấy lạm phát chỉ cao hơn 2% một chút, được gọi là 'bồ câu'. Các thành viên muốn thấy lãi suất cao hơn để thưởng cho tiền tiết kiệm và muốn duy trì lạm phát mọi lúc được gọi là 'diều hâu' và sẽ không nghỉ ngơi cho đến khi lạm phát ở mức hoặc thấp hơn một chút là 2%.
Thông thường, có một chủ tịch hoặc tổng thống điều hành mỗi cuộc họp, cần tạo ra sự đồng thuận giữa phe diều hâu hoặc phe bồ câu và có tiếng nói cuối cùng khi nào thì đưa ra quyết định bỏ phiếu để tránh tỷ lệ hòa 50-50 về việc có nên điều chỉnh chính sách hiện tại hay không. Chủ tịch sẽ có bài phát biểu thường có thể được theo dõi trực tiếp, trong đó lập trường và triển vọng tiền tệ hiện tại được truyền đạt. Một ngân hàng trung ương sẽ cố gắng thúc đẩy chính sách tiền tệ của mình mà không gây ra biến động mạnh về lãi suất, cổ phiếu hoặc tiền tệ của mình. Tất cả các thành viên của ngân hàng trung ương sẽ truyền đạt lập trường của mình tới thị trường trước sự kiện họp chính sách. Vài ngày trước khi cuộc họp chính sách diễn ra cho đến khi chính sách mới được truyền đạt, các thành viên bị cấm nói chuyện công khai. Đây được gọi là thời gian cấm phát biểu.