EUR/USD đang giao dịch với mức giảm nhẹ quanh 1,1340 tại thời điểm viết bài vào thứ Sáu, nhưng vẫn giữ được phần lớn mức tăng đã đạt được trong ngày thứ Năm sau khi một tòa án liên bang của Mỹ đảo ngược lệnh chặn thuế quan của Tổng thống Mỹ Donald Trump, dẫn đến một đợt bán tháo mạnh đồng đô la Mỹ (USD).
Tòa án phúc thẩm Mỹ đã tạm dừng phán quyết của Tòa án Thương mại Quốc tế vào ngày hôm trước, phán quyết này đã chặn hầu hết các khoản thuế được áp dụng vào ngày 2 tháng 4. Quyết định này đã làm tăng thêm tình hình thương mại toàn cầu và gia tăng áp lực lên tất cả các tài sản của Mỹ.
Lo ngại của các nhà đầu tư về chính sách thương mại không ổn định, kết hợp với những lo ngại ngày càng tăng về sự ổn định tài chính của Mỹ, được gia tăng bởi một dự luật cắt giảm thuế dự kiến sẽ làm tăng hàng nghìn tỷ đô la vào khoản nợ Mỹ đã cao, đang thúc đẩy giao dịch "Bán Mỹ" và làm suy yếu USD trong hai tháng qua.
Trên mặt trận kinh tế vĩ mô, dữ liệu của Mỹ không cải thiện được tâm lý thị trường, với số đơn xin trợ cấp thất nghiệp lần đầu hàng tuần tăng vượt quá kỳ vọng và Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) xác nhận rằng nền kinh tế đã co lại trong quý đầu tiên.
Tại châu Âu, dữ liệu Doanh số bán lẻ của Đức không hỗ trợ được đồng euro (EUR), làm tăng lo ngại về sức khỏe của nền kinh tế lớn nhất khu vực đồng euro, mặc dù tác động là tối thiểu. Sự chú ý của các nhà đầu tư đang tập trung vào các chỉ số giá tiêu dùng của Đức, sẽ được công bố sau trong ngày.
Bảng bên dưới hiển thị tỷ lệ phần trăm thay đổi của Đồng Euro (EUR) so với các loại tiền tệ chính được liệt kê hôm nay. Đồng Euro mạnh nhất so với Đô la Úc.
USD | EUR | GBP | JPY | CAD | AUD | NZD | CHF | |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|
USD | 0.21% | 0.07% | -0.13% | 0.06% | 0.36% | 0.02% | 0.07% | |
EUR | -0.21% | -0.12% | -0.38% | -0.15% | 0.18% | 0.13% | -0.15% | |
GBP | -0.07% | 0.12% | -0.21% | -0.01% | 0.32% | 0.08% | -0.01% | |
JPY | 0.13% | 0.38% | 0.21% | 0.21% | 0.61% | 0.32% | 0.28% | |
CAD | -0.06% | 0.15% | 0.01% | -0.21% | 0.39% | 0.08% | 0.00% | |
AUD | -0.36% | -0.18% | -0.32% | -0.61% | -0.39% | -0.06% | -0.33% | |
NZD | -0.02% | -0.13% | -0.08% | -0.32% | -0.08% | 0.06% | -0.27% | |
CHF | -0.07% | 0.15% | 0.01% | -0.28% | -0.01% | 0.33% | 0.27% |
Bản đồ nhiệt hiển thị phần trăm thay đổi của các loại tiền tệ chính so với nhau. Đồng tiền cơ sở được chọn từ cột bên trái, và đồng tiền định giá được chọn từ hàng trên cùng. Ví dụ: nếu bạn chọn Đồng Euro từ cột bên trái và di chuyển dọc theo đường ngang sang Đô la Mỹ, phần trăm thay đổi được hiển thị trong ô sẽ đại diện cho EUR (đồng tiền cơ sở)/USD (đồng tiền định giá).
EUR/USD đã bật mạnh vào thứ Năm, tạo ra một nến bao trùm tăng giá trên biểu đồ hàng ngày. Đây là một dấu hiệu tích cực, nhưng cần được xác nhận bằng việc tăng giá thêm trên mức hỗ trợ đường xu hướng trước đó, giờ đã chuyển thành kháng cự, tại 1,1390, và cũng trên mức cao hàng tuần, tại 1,1420.
Một sự xác nhận trên hai mức này sẽ chuyển sự chú ý về mức cao ngày 22 tháng 4, gần 1,1545.
Ngược lại, nếu không vượt qua được 1,1420 có thể khiến phe giảm giá quay lại kiểm soát, và gia tăng áp lực về phía vùng hỗ trợ 1,1220 trước các mức 1,1135 (đáy ngày 16 tháng 5) và 1,1070 (đáy ngày 12 tháng 5).
Lạm phát đo lường mức tăng giá của một rổ hàng hóa và dịch vụ tiêu biểu. Lạm phát tiêu đề thường được thể hiện dưới dạng phần trăm thay đổi theo tháng (hàng tháng) và theo năm (hàng năm). Lạm phát cốt lõi không bao gồm các yếu tố dễ biến động hơn như thực phẩm và nhiên liệu có thể dao động do các yếu tố địa chính trị và theo mùa. Lạm phát cốt lõi là con số mà các nhà kinh tế tập trung vào và là mức mà các ngân hàng trung ương nhắm tới, được giao nhiệm vụ giữ lạm phát ở mức có thể kiểm soát được, thường là khoảng 2%.
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) đo lường sự thay đổi giá của một rổ hàng hóa và dịch vụ trong một khoảng thời gian. Chỉ số này thường được thể hiện dưới dạng phần trăm thay đổi theo tháng (hàng tháng) và theo năm (hàng năm). CPI cơ bản là con số mà các ngân hàng trung ương nhắm đến vì nó không bao gồm các đầu vào thực phẩm và nhiên liệu biến động. Khi CPI cơ bản tăng trên 2%, thường dẫn đến lãi suất cao hơn và ngược lại khi giảm xuống dưới 2%. Vì lãi suất cao hơn là tích cực đối với một loại tiền tệ, nên lạm phát cao hơn thường dẫn đến một loại tiền tệ mạnh hơn. Điều ngược lại xảy ra khi lạm phát giảm.
Mặc dù có vẻ trái ngược với thông thường, lạm phát cao ở một quốc gia sẽ đẩy giá trị đồng tiền của quốc gia đó lên và ngược lại đối với lạm phát thấp hơn. Điều này là do ngân hàng trung ương thường sẽ tăng lãi suất để chống lại lạm phát cao hơn, điều này thu hút nhiều dòng vốn toàn cầu hơn từ các nhà đầu tư đang tìm kiếm một nơi sinh lợi để gửi tiền của họ.
Trước đây, Vàng là tài sản mà các nhà đầu tư hướng đến trong thời kỳ lạm phát cao vì nó bảo toàn giá trị của nó, và trong khi các nhà đầu tư thường vẫn mua Vàng vì tính chất trú ẩn an toàn của nó trong thời kỳ thị trường biến động cực độ, thì hầu hết thời gian không phải vậy. Điều này là do khi lạm phát cao, các ngân hàng trung ương sẽ tăng lãi suất để chống lại lạm phát. Lãi suất cao hơn là tiêu cực đối với Vàng vì chúng làm tăng chi phí cơ hội khi nắm giữ Vàng so với tài sản sinh lãi hoặc gửi tiền vào tài khoản tiền gửi bằng tiền mặt. Mặt khác, lạm phát thấp hơn có xu hướng tích cực đối với Vàng vì nó làm giảm lãi suất, khiến kim loại sáng này trở thành một lựa chọn đầu tư khả thi hơn.