Sau đây là những thông tin bạn cần biết vào thứ Tư, ngày 4 tháng 9:
Các cặp tiền tệ chính tiếp tục giao dịch trong phạm vi quen thuộc vào đầu ngày thứ Tư khi thị trường chờ đợi chất xúc tác tiếp theo. Eurostat sẽ công bố dữ liệu Chỉ số giá sản xuất (PPI) cho tháng 7 trong phiên giao dịch châu Âu. Trong nửa cuối ngày, dữ liệu Cán cân thương mại hàng hóa tháng 7, Đơn đặt hàng nhà máy và Dữ liệu việc làm JOLTS sẽ được đưa vào chương trình nghị sự kinh tế của Hoa Kỳ. Trong phiên giao dịch của Hoa Kỳ, Ngân hàng trung ương Canada (BoC) sẽ công bố các quyết định về chính sách tiền tệ và Cục Dự trữ Liên bang sẽ công bố Báo cáo khảo sát ý kiến của mình vào cuối phiên giao dịch.
Dữ liệu từ Úc cho thấy trong phiên giao dịch châu Á rằng Tổng sản phẩm quốc nội của quốc gia này đã tăng trưởng với tốc độ hàng năm là 1% trong quý 2, phù hợp với kỳ vọng của thị trường. Trong khi đó, PMI ngành dịch vụ Caixin tại Trung Quốc giảm nhẹ xuống còn 51,6 vào tháng 8 từ mức 52,1 vào tháng 7. Sau đợt giảm mạnh vào thứ Ba, AUD/USD giữ ổn định ở mức khoảng 0,6700 vào đầu ngày thứ Tư.
BoC dự kiến sẽ hạ lãi suất chính sách 25 điểm cơ bản (bps) xuống còn 4,25% sau cuộc họp chính sách vào tháng 9. USD/CAD tăng 0,4% vào thứ Ba và đóng cửa ngày giao dịch thứ năm liên tiếp trong vùng tích cực. Cặp tiền tệ này vẫn trong giai đoạn củng cố ở mức thấp hơn một chút so với 1,3550 vào buổi sáng tại châu Âu.
Bảng bên dưới hiển thị tỷ lệ phần trăm thay đổi của đô la Mỹ (USD) so với các loại tiền tệ chính được niêm yết trong tuần này. Đô la Mỹ là đồng tiền mạnh nhất so với đô la New Zealand.
USD | EUR | GBP | JPY | CAD | AUD | NZD | CHF | |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|
USD | -0.10% | 0.11% | -0.83% | 0.40% | 0.82% | 0.98% | -0.13% | |
EUR | 0.10% | 0.23% | -0.74% | 0.47% | 0.92% | 1.07% | -0.05% | |
GBP | -0.11% | -0.23% | -0.97% | 0.23% | 0.66% | 0.87% | -0.30% | |
JPY | 0.83% | 0.74% | 0.97% | 1.18% | 1.68% | 1.94% | 0.62% | |
CAD | -0.40% | -0.47% | -0.23% | -1.18% | 0.46% | 0.58% | -0.53% | |
AUD | -0.82% | -0.92% | -0.66% | -1.68% | -0.46% | 0.14% | -0.96% | |
NZD | -0.98% | -1.07% | -0.87% | -1.94% | -0.58% | -0.14% | -1.11% | |
CHF | 0.13% | 0.05% | 0.30% | -0.62% | 0.53% | 0.96% | 1.11% |
Bản đồ nhiệt hiển thị phần trăm thay đổi của các loại tiền tệ chính so với nhau. Đơn vị tiền tệ cơ sở được chọn từ cột bên trái, trong khi loại tiền định giá được chọn từ hàng trên cùng. Ví dụ: nếu bạn chọn đồng euro từ cột bên trái và di chuyển dọc theo đường ngang đến đồng yên Nhật, phần trăm thay đổi được hiển thị trong ô sẽ đại diện cho đồng EUR (cơ sở)/JPY (báo giá).
Chỉ số Đô la Mỹ (USD) đã chạm mức cao nhất kể từ ngày 20 tháng 8 là 101,91 vào thứ Ba nhưng đã xóa một phần mức tăng để đóng cửa ngày cao hơn một chút. Chỉ số này giữ trên 101,50 vào đầu ngày thứ Tư và lợi suất trái phiếu chính phủ Mỹ kỳ hạn 10 năm chuẩn vẫn ở mức gần 3,8% sau khi giảm hơn 2% vào thứ Ba. Trong khi đó, hợp đồng tương lai chỉ số chứng khoán Hoa Kỳ lần cuối cùng được nhìn thấy giảm từ 0,4% đến 0,8%.
EUR/USD giảm nhẹ vào thứ Ba nhưng đã phục hồi trên 1,1050 vào thứ Tư. PPI hàng tháng tại Khu vực đồng Euro được dự báo sẽ tăng 0,3% vào tháng 8.
GBP/USD ghi nhận mức lỗ nhỏ vào thứ Ba. Cặp tiền tệ này giữ ổn định ở mức trên 1,3100 một chút trong phiên giao dịch châu Âu.
USD/JPY đã quay đầu giảm và chấm dứt chuỗi bốn ngày tăng giá vào thứ Ba. Cặp tiền tệ này vẫn chịu áp lực giảm giá vào đầu ngày thứ Tư và giao dịch ở mức khoảng 145,00.
Sau khi không ổn định trên mức 2.500$, Vàng đã đóng cửa ở mức âm vào thứ Ba. XAU/USD tiếp tục giảm vào đầu ngày thứ Tư và lần cuối cùng được nhìn thấy giao dịch dưới mức 2.490$.