Dưới đây là những gì bạn cần biết vào thứ Hai, ngày 22 tháng 9:
Vàng tiếp tục đà tăng giá của mình để kết thúc tuần trước và giao dịch ở mức cao kỷ lục mới trên 3.700$ vào thứ Hai. Trong bối cảnh không có dữ liệu công bố có tác động lớn, các nhà đầu tư sẽ chú ý đến những bình luận từ các nhà hoạch định chính sách của các ngân hàng trung ương lớn vào thứ Hai.
Sau một đợt tăng giá kéo dài ba ngày, Đô la Mỹ (USD) giữ vững trong buổi sáng châu Âu vào thứ Hai, với chỉ số USD đi ngang trên 97,50. Giọng điệu thận trọng của Cục Dự trữ Liên bang (Fed) về việc nới lỏng chính sách hơn nữa và các dữ liệu tích cực từ Mỹ được công bố trong nửa sau của tuần trước tiếp tục hỗ trợ cho USD. Trong khi đó, hợp đồng tương lai chỉ số chứng khoán Mỹ giảm khoảng 0,2% để bắt đầu phiên giao dịch châu Âu, phản ánh tâm lý thận trọng của thị trường. Các nhà hoạch định chính sách của Fed như John Williams, Alberto Musalem, Thomas Barkin, Beth Hammack và những người khác sẽ có bài phát biểu vào cuối ngày.
Bảng bên dưới hiển thị tỷ lệ phần trăm thay đổi của Đô la Mỹ (USD) so với các loại tiền tệ chính được liệt kê 7 ngày trước. Đô la Mỹ mạnh nhất so với Đô la New Zealand.
USD | EUR | GBP | JPY | CAD | AUD | NZD | CHF | |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|
USD | -0.16% | 0.54% | 0.19% | -0.24% | 0.88% | 1.75% | -0.20% | |
EUR | 0.16% | 0.73% | 0.31% | -0.08% | 1.09% | 1.87% | -0.04% | |
GBP | -0.54% | -0.73% | -0.36% | -0.80% | 0.35% | 1.13% | -0.88% | |
JPY | -0.19% | -0.31% | 0.36% | -0.45% | 0.73% | 1.54% | -0.39% | |
CAD | 0.24% | 0.08% | 0.80% | 0.45% | 1.23% | 1.95% | -0.08% | |
AUD | -0.88% | -1.09% | -0.35% | -0.73% | -1.23% | 0.77% | -1.15% | |
NZD | -1.75% | -1.87% | -1.13% | -1.54% | -1.95% | -0.77% | -1.99% | |
CHF | 0.20% | 0.04% | 0.88% | 0.39% | 0.08% | 1.15% | 1.99% |
Bản đồ nhiệt hiển thị phần trăm thay đổi của các loại tiền tệ chính so với nhau. Đồng tiền cơ sở được chọn từ cột bên trái, và đồng tiền định giá được chọn từ hàng trên cùng. Ví dụ: nếu bạn chọn Đô la Mỹ từ cột bên trái và di chuyển dọc theo đường ngang sang Đồng Yên Nhật, phần trăm thay đổi được hiển thị trong ô sẽ đại diện cho USD (đồng tiền cơ sở)/JPY (đồng tiền định giá).
Vàng hưởng lợi từ những căng thẳng địa chính trị gia tăng và tiếp tục tăng cao hơn sau khi tăng hơn 1% vào thứ Sáu. Tin tức về việc lực lượng NATO chặn ba máy bay chiến đấu MiG-31 của Nga sau khi chúng xâm nhập không phận Estonia khiến các nhà đầu tư lo lắng. Tổng thống Mỹ Donald Trump bày tỏ sự không hài lòng với sự xâm nhập này và cho biết ông sẽ giúp bảo vệ các thành viên Liên minh Châu Âu nếu Nga gia tăng thù địch.
EUR/USD củng cố những tổn thất mà nó phải chịu trong nửa sau của tuần trước và dao động dưới 1,1750 trong phiên giao dịch châu Âu sớm vào thứ Hai. Ủy ban Châu Âu sẽ công bố dữ liệu niềm tin người tiêu dùng sơ bộ cho tháng 9 vào cuối ngày.
GBP/USD đi ngang dưới 1,3500 sau khi giảm mạnh vào thứ Năm và thứ Sáu. Đánh giá về các thông báo chính sách của Ngân hàng Anh (BoE), “BoE đã bỏ phiếu với đa số 7–2 để giữ nguyên lãi suất ở mức 4,00% trong tháng 9,” các nhà phân tích của UoB Group cho biết. “Hướng dẫn chính sách quan trọng được giữ nguyên, với ngân hàng trung ương nhấn mạnh rằng một cách tiếp cận dần dần và thận trọng đối với việc rút lui thêm khỏi chính sách tiền tệ vẫn là phù hợp,” họ bổ sung.
USD/JPY gặp khó khăn trong việc tìm hướng đi vào thứ Hai và dao động quanh mức 148,00. Ngân hàng trung ương Nhật Bản (BoJ) đã giữ nguyên các thiết lập chính sách tiền tệ sau cuộc họp chính sách tháng 9, như dự đoán. Tuy nhiên, hai nhà hoạch định chính sách đã bất ngờ bỏ phiếu ủng hộ việc tăng lãi suất. “Điều quan trọng nhất đối với đồng yên là sự chia rẽ trong phiếu bầu diều hâu. Chúng tôi đã dự đoán một đợt tăng lãi suất vào tháng 10, và phiếu bầu của những người bất đồng khiến chúng tôi tự tin hơn về quan điểm đó,” các nhà phân tích của ING cho biết.
Đô la Mỹ (USD) là tiền tệ chính thức của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ và là tiền tệ 'trên thực tế' của một số lượng đáng kể các quốc gia khác nơi nó được lưu hành cùng với tiền giấy địa phương. Đây là loại tiền tệ được giao dịch nhiều nhất trên thế giới, chiếm hơn 88% tổng doanh thu ngoại hối toàn cầu, tương đương trung bình 6,6 nghìn tỷ đô la giao dịch mỗi ngày, theo dữ liệu từ năm 2022. Sau Thế chiến thứ hai, USD đã thay thế Bảng Anh trở thành đồng tiền dự trữ của thế giới. Trong phần lớn lịch sử của mình, Đô la Mỹ được hỗ trợ bởi Vàng, cho đến khi Thỏa thuận Bretton Woods năm 1971 khi Bản vị Vàng không còn nữa.
Yếu tố quan trọng nhất tác động đến giá trị của đồng đô la Mỹ là chính sách tiền tệ, được định hình bởi Cục Dự trữ Liên bang (Fed). Fed có hai nhiệm vụ: đạt được sự ổn định giá cả (kiểm soát lạm phát) và thúc đẩy việc làm đầy đủ. Công cụ chính của Fed để đạt được hai mục tiêu này là điều chỉnh lãi suất. Khi giá cả tăng quá nhanh và lạm phát cao hơn mục tiêu 2% của Fed, Fed sẽ tăng lãi suất, điều này giúp giá trị của đồng đô la Mỹ tăng. Khi lạm phát giảm xuống dưới 2% hoặc Tỷ lệ thất nghiệp quá cao, Fed có thể hạ lãi suất, điều này gây áp lực lên đồng bạc xanh.
Trong những tình huống cực đoan, Cục Dự trữ Liên bang cũng có thể in thêm Đô la và ban hành nới lỏng định lượng (QE). QE là quá trình mà Fed tăng đáng kể dòng tín dụng trong một hệ thống tài chính bế tắc. Đây là một biện pháp chính sách không chuẩn được sử dụng khi tín dụng đã cạn kiệt vì các ngân hàng sẽ không cho nhau vay (vì sợ bên đối tác vỡ nợ). Đây là biện pháp cuối cùng khi việc chỉ đơn giản là hạ lãi suất không có khả năng đạt được kết quả cần thiết. Đây là vũ khí được Fed lựa chọn để chống lại cuộc khủng hoảng tín dụng xảy ra trong cuộc Đại khủng hoảng tài chính năm 2008. Nó liên quan đến việc Fed in thêm Đô la và sử dụng chúng để mua trái phiếu chính phủ Hoa Kỳ chủ yếu từ các tổ chức tài chính. QE thường dẫn đến đồng Đô la Mỹ yếu hơn.
Thắt chặt định lượng (QT) là quá trình ngược lại trong đó Cục Dự trữ Liên bang ngừng mua trái phiếu từ các tổ chức tài chính và không tái đầu tư vốn từ các trái phiếu mà họ nắm giữ đến hạn vào các giao dịch mua mới. Thông thường, điều này có lợi cho đồng đô la Mỹ.