Chuyên gia kinh tế trưởng của Ngân hàng Trung ương Châu Âu (ECB) Philip Lane cho biết vào thứ Hai rằng họ sẽ tiếp tục chú ý đến những thay đổi trong phân phối rủi ro khi đưa ra quyết định về lãi suất, theo Reuters.
"Một sự gia tăng khả năng hoặc cường độ của các yếu tố rủi ro giảm giá sẽ củng cố lập luận rằng một mức lãi suất chính sách thấp hơn một chút có thể bảo vệ tốt hơn mục tiêu lạm phát trung hạn," Lane giải thích khi phát biểu tại một sự kiện ở Frankfurt.
"Trong khi các thỏa thuận thương mại gần đây đã giảm bớt sự không chắc chắn phần nào, tác động tổng thể của sự thay đổi trong môi trường chính sách toàn cầu sẽ chỉ trở nên rõ ràng theo thời gian."
"Một sự chuyển động liên tục của đồng euro trung bình có tác động kéo dài nhiều năm đến hoạt động kinh tế và lạm phát."
"Những tác động này sẽ lớn hơn mức trung bình nếu sự tăng giá của đồng euro chủ yếu do các yếu tố bên ngoài."
Các bình luận này nhận được điểm số trung lập là 5,2 từ FXStreet ECB Speech Tracker. Trong khi đó, EUR/USD vẫn chịu áp lực giảm giá nặng nề và lần cuối cùng được nhìn thấy giao dịch ở mức 1,1660, giảm 0,7% trong ngày.
Ngân hàng Trung ương Châu Âu (ECB) tại Frankfurt, Đức, là ngân hàng dự trữ của Khu vực đồng tiền chung châu Âu. ECB đặt ra lãi suất và quản lý chính sách tiền tệ cho khu vực. Nhiệm vụ chính của ECB là duy trì sự ổn định giá cả, nghĩa là giữ lạm phát ở mức khoảng 2%. Công cụ chính để đạt được mục tiêu này là tăng hoặc giảm lãi suất. Lãi suất tương đối cao thường sẽ dẫn đến đồng Euro mạnh hơn và ngược lại. Hội đồng quản lý ECB đưa ra quyết định về chính sách tiền tệ tại các cuộc họp được tổ chức tám lần một năm. Các quyết định được đưa ra bởi người đứng đầu các ngân hàng quốc gia Khu vực đồng tiền chung châu Âu và sáu thành viên thường trực, bao gồm Thống đốc ECB, Christine Lagarde.
Trong những tình huống cực đoan, Ngân hàng Trung ương Châu Âu có thể ban hành một công cụ chính sách gọi là Nới lỏng định lượng. Nới lỏng định lượng (QE) là quá trình ECB in Euro và sử dụng chúng để mua tài sản – thường là trái phiếu chính phủ hoặc trái phiếu doanh nghiệp – từ các ngân hàng và các tổ chức tài chính khác. QE thường dẫn đến đồng Euro yếu hơn. QE là biện pháp cuối cùng khi việc chỉ đơn giản là hạ lãi suất không có khả năng đạt được mục tiêu ổn định giá cả. ECB đã sử dụng biện pháp này trong cuộc Đại khủng hoảng tài chính năm 2009-2011, năm 2015 khi lạm phát vẫn ở mức thấp một cách ngoan cố, cũng như trong đại dịch covid.
Thắt chặt định lượng (QT) là ngược lại với Nới lỏng định lượng (QE). Nó được thực hiện sau QE khi nền kinh tế đang phục hồi và lạm phát bắt đầu tăng. Trong khi ở QE, Ngân hàng Trung ương Châu Âu (ECB) mua trái phiếu chính phủ và trái phiếu doanh nghiệp từ các tổ chức tài chính để cung cấp cho họ thanh khoản, thì ở QT, ECB ngừng mua thêm trái phiếu và ngừng tái đầu tư số tiền gốc đáo hạn vào các trái phiếu mà họ đang nắm giữ. Thường thì điều đó là tích cực (hoặc tăng giá) đối với đồng Euro.