
Cặp USD/CAD giao dịch thấp hơn 0,12% xuống gần 1,4080 trong phiên giao dịch châu Á vào thứ Tư. Cặp Loonie đối mặt với áp lực bán nhẹ khi đồng đô la Mỹ (USD) giao dịch thận trọng giữa những suy đoán gia tăng rằng Cục Dự trữ Liên bang (Fed) có thể cắt giảm lãi suất trong cuộc họp chính sách tiền tệ vào tháng 12.
Tại thời điểm viết bài, Chỉ số Đô la Mỹ (DXY), theo dõi giá trị của đồng bạc xanh so với sáu đồng tiền chính, giữ vững mức giảm của thứ Ba gần 99,70.
Bảng bên dưới hiển thị tỷ lệ phần trăm thay đổi của Đô la Mỹ (USD) so với các loại tiền tệ chính được liệt kê hôm nay. Đô la Mỹ là yếu nhất so với Đô la New Zealand.
| USD | EUR | GBP | JPY | CAD | AUD | NZD | CHF | |
|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
| USD | -0.16% | -0.19% | -0.16% | -0.13% | -0.40% | -1.19% | -0.14% | |
| EUR | 0.16% | -0.05% | -0.02% | 0.00% | -0.26% | -1.04% | 0.00% | |
| GBP | 0.19% | 0.05% | 0.02% | 0.06% | -0.20% | -0.99% | 0.06% | |
| JPY | 0.16% | 0.02% | -0.02% | 0.03% | -0.23% | -1.03% | 0.03% | |
| CAD | 0.13% | -0.01% | -0.06% | -0.03% | -0.28% | -1.07% | -0.00% | |
| AUD | 0.40% | 0.26% | 0.20% | 0.23% | 0.28% | -0.80% | 0.27% | |
| NZD | 1.19% | 1.04% | 0.99% | 1.03% | 1.07% | 0.80% | 1.07% | |
| CHF | 0.14% | -0.01% | -0.06% | -0.03% | 0.00% | -0.27% | -1.07% |
Bản đồ nhiệt hiển thị phần trăm thay đổi của các loại tiền tệ chính so với nhau. Đồng tiền cơ sở được chọn từ cột bên trái, và đồng tiền định giá được chọn từ hàng trên cùng. Ví dụ: nếu bạn chọn Đô la Mỹ từ cột bên trái và di chuyển dọc theo đường ngang sang Đồng Yên Nhật, phần trăm thay đổi được hiển thị trong ô sẽ đại diện cho USD (đồng tiền cơ sở)/JPY (đồng tiền định giá).
Theo công cụ CME FedWatch, xác suất Fed cắt giảm lãi suất 25 điểm cơ bản (bps) xuống 3,50%-3,75% trong cuộc họp tháng 12 đã tăng lên 85,3% từ mức 50,1% cách đây một tuần.
Kỳ vọng ôn hòa từ Fed gia tăng sau khi các bình luận từ Chủ tịch New York John Williams vào thứ Sáu cho thấy ông có thể ủng hộ việc cắt giảm lãi suất trong cuộc họp chính sách tháng 12.
"Tôi xem chính sách tiền tệ là có tính chất hạn chế vừa phải, mặc dù có phần ít hơn so với trước các hành động gần đây của chúng tôi, và cho rằng còn có không gian cho một điều chỉnh thêm trong thời gian tới," Williams nói, theo CNBC. Williams ủng hộ việc cần mở rộng chính sách tiền tệ hơn nữa, với lý do rằng "tăng trưởng kinh tế đã chậm lại và thị trường lao động dần hạ nhiệt."
Ngoài hướng dẫn chính sách tiền tệ ôn hòa từ Williams của Fed, dữ liệu nhẹ nhàng từ Mỹ cũng đã gây áp lực lên đồng đô la Mỹ. Vào thứ Ba, dữ liệu cho thấy lạm phát sản xuất cơ bản của Mỹ đã hạ nhiệt - không bao gồm các mặt hàng thực phẩm và năng lượng dễ biến động - và Doanh số bán lẻ đã tăng trưởng vừa phải trong tháng 9.
Trong khi đó, đồng đô la Canada (CAD) giao dịch khá ổn định với kỳ vọng rằng Ngân hàng trung ương Canada (BoC) sẽ giữ lãi suất trong thời gian tới. Trong cuộc họp chính sách tháng 10, BoC đã báo hiệu kết thúc chu kỳ mở rộng tiền tệ của mình sau khi cắt giảm lãi suất 25 bps xuống 2,25%.
Trái ngược với các bình luận của BoC, các nhà phân tích tại Citi kỳ vọng sẽ có thêm các đợt cắt giảm lãi suất vào năm 2026, với lý do rằng cả tăng trưởng và lạm phát có thể yếu hơn dự kiến vào năm tới.
Chính sách tiền tệ tại Hoa Kỳ được định hình bởi Cục Dự trữ Liên bang (Fed). Fed có hai nhiệm vụ: đạt được sự ổn định giá cả và thúc đẩy việc làm đầy đủ. Công cụ chính của Fed để đạt được các mục tiêu này là điều chỉnh lãi suất. Khi giá cả tăng quá nhanh và lạm phát cao hơn mục tiêu 2% của Fed, Fed sẽ tăng lãi suất, làm tăng chi phí đi vay trên toàn bộ nền kinh tế. Điều này dẫn đến đồng Đô la Mỹ (USD) mạnh hơn vì khiến Hoa Kỳ trở thành nơi hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư quốc tế gửi tiền của họ. Khi lạm phát giảm xuống dưới 2% hoặc Tỷ lệ thất nghiệp quá cao, Fed có thể hạ lãi suất để khuyến khích đi vay, điều này gây áp lực lên Đồng bạc xanh.
Cục Dự trữ Liên bang (Fed) tổ chức tám cuộc họp chính sách mỗi năm, trong đó Ủy ban Thị trường Mở Liên bang (FOMC) đánh giá các điều kiện kinh tế và đưa ra các quyết định về chính sách tiền tệ. FOMC có sự tham dự của mười hai quan chức Fed – bảy thành viên của Hội đồng Thống đốc, Thống đốc Ngân hàng Dự trữ Liên bang New York và bốn trong số mười một Thống đốc Ngân hàng Dự trữ khu vực còn lại, những người phục vụ nhiệm kỳ một năm theo chế độ luân phiên.
Trong những tình huống cực đoan, Cục Dự trữ Liên bang có thể dùng đến một chính sách có tên là Nới lỏng định lượng (QE). QE là quá trình mà Fed tăng đáng kể dòng tín dụng trong một hệ thống tài chính bị kẹt. Đây là một biện pháp chính sách không theo tiêu chuẩn được sử dụng trong các cuộc khủng hoảng hoặc khi lạm phát cực kỳ thấp. Đây là vũ khí được Fed lựa chọn trong cuộc Đại khủng hoảng tài chính năm 2008. Điều này liên quan đến việc Fed in thêm Đô la và sử dụng chúng để mua trái phiếu cấp cao từ các tổ chức tài chính. QE thường làm suy yếu Đồng đô la Mỹ.
Thắt chặt định lượng (QT) là quá trình ngược lại của Nới lỏng định lượng (QE), theo đó Cục Dự trữ Liên bang ngừng mua trái phiếu từ các tổ chức tài chính và không tái đầu tư số tiền gốc từ các trái phiếu mà họ nắm giữ đến hạn để mua trái phiếu mới. Thông thường, điều này có lợi cho giá trị của đồng đô la Mỹ.