Cặp USD/JPY giao dịch cao hơn 0,4% gần mức 148,00 trong phiên giao dịch châu Á muộn vào thứ Tư. Cặp này tăng khi đồng yên Nhật (JPY) yếu kém hơn so với các đồng tiền khác giữa sự không chắc chắn xung quanh dữ liệu Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) Tokyo cho tháng 8, dự kiến sẽ được công bố vào thứ Sáu.
Bảng bên dưới hiển thị tỷ lệ phần trăm thay đổi của Đồng Yên Nhật (JPY) so với các loại tiền tệ chính được liệt kê hôm nay. Đồng Yên Nhật là yếu nhất so với Đô la Mỹ.
USD | EUR | GBP | JPY | CAD | AUD | NZD | CHF | |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|
USD | 0.22% | 0.21% | 0.37% | 0.04% | 0.11% | 0.25% | 0.12% | |
EUR | -0.22% | -0.01% | 0.09% | -0.23% | -0.18% | -0.01% | -0.14% | |
GBP | -0.21% | 0.00% | 0.14% | -0.17% | -0.06% | 0.04% | -0.09% | |
JPY | -0.37% | -0.09% | -0.14% | -0.28% | -0.27% | -0.12% | -0.18% | |
CAD | -0.04% | 0.23% | 0.17% | 0.28% | 0.07% | 0.23% | 0.09% | |
AUD | -0.11% | 0.18% | 0.06% | 0.27% | -0.07% | 0.17% | 0.03% | |
NZD | -0.25% | 0.00% | -0.04% | 0.12% | -0.23% | -0.17% | -0.13% | |
CHF | -0.12% | 0.14% | 0.09% | 0.18% | -0.09% | -0.03% | 0.13% |
Bản đồ nhiệt hiển thị phần trăm thay đổi của các loại tiền tệ chính so với nhau. Đồng tiền cơ sở được chọn từ cột bên trái, và đồng tiền định giá được chọn từ hàng trên cùng. Ví dụ: nếu bạn chọn Đồng Yên Nhật từ cột bên trái và di chuyển dọc theo đường ngang sang Đô la Mỹ, phần trăm thay đổi được hiển thị trong ô sẽ đại diện cho JPY (đồng tiền cơ sở)/USD (đồng tiền định giá).
Các nhà đầu tư sẽ theo dõi chặt chẽ dữ liệu CPI Tokyo vì nó sẽ ảnh hưởng đến kỳ vọng của thị trường về triển vọng chính sách tiền tệ của Ngân hàng trung ương Nhật Bản (BoJ). CPI Tokyo không bao gồm thực phẩm tươi sống dự kiến sẽ tăng với tốc độ hàng năm 2,5%, chậm hơn so với mức 2,9% trước đó. Những dấu hiệu về áp lực giá giảm sẽ buộc các nhà giao dịch phải cắt giảm cược ủng hộ việc tăng lãi suất của BoJ trong phần còn lại của năm.
Trong khi đó, đồng đô la Mỹ (USD) giao dịch ổn định khi Thống đốc Cục Dự trữ Liên bang (Fed) Lisa Cook đã xác nhận sẽ khởi kiện chống lại việc bị sa thải bởi Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump liên quan đến các cáo buộc về thế chấp.
Các thành viên tham gia thị trường tài chính đã coi sự kiện này là một cuộc tấn công nghiêm trọng vào sự độc lập của Fed và ý định của Trump trong việc chính trị hóa ngân hàng trung ương để thực hiện chương trình kinh tế của mình. "Mối quan tâm là ý định của chính quyền Trump: không phải là bảo vệ tính toàn vẹn của Fed, mà là cài cắm người của Trump vào Fed," các nhà phân tích tại Capital.com cho biết, theo Reuters.
USD/JPY giao dịch trong mô hình Tam giác Tăng, cho thấy sự thu hẹp biến động mạnh. Đường biên độ dốc lên của mô hình biểu đồ đã đề cập ở trên được vẽ từ mức thấp 139,40 vào ngày 22 tháng 4, trong khi mức kháng cự ngang được vẽ từ mức cao 151,20 vào ngày 28 tháng 3.
Tài sản này cố gắng vượt qua đường trung bình động hàm mũ (EMA) 200 ngày, hiện giao dịch quanh mức 147,90.
Chỉ báo sức mạnh tương đối (RSI) 14 ngày dao động trong khoảng 40,00-60,00, cho thấy xu hướng đi ngang.
Cặp này sẽ có thêm đà tăng gần mức tâm lý 150,00 và mức cao 151,20 vào ngày 28 tháng 3 nếu nó vượt qua mức cao 148,78 vào ngày 22 tháng 8.
Mặt khác, một động thái đảo chiều của cặp này dưới mức thấp 145,85 vào ngày 24 tháng 7 sẽ mở đường cho mức thấp 144,22 vào ngày 7 tháng 7, tiếp theo là mức thấp 143,45 vào ngày 3 tháng 7.
Đô la Mỹ (USD) là tiền tệ chính thức của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ và là tiền tệ 'trên thực tế' của một số lượng đáng kể các quốc gia khác nơi nó được lưu hành cùng với tiền giấy địa phương. Đây là loại tiền tệ được giao dịch nhiều nhất trên thế giới, chiếm hơn 88% tổng doanh thu ngoại hối toàn cầu, tương đương trung bình 6,6 nghìn tỷ đô la giao dịch mỗi ngày, theo dữ liệu từ năm 2022. Sau Thế chiến thứ hai, USD đã thay thế Bảng Anh trở thành đồng tiền dự trữ của thế giới. Trong phần lớn lịch sử của mình, Đô la Mỹ được hỗ trợ bởi Vàng, cho đến khi Thỏa thuận Bretton Woods năm 1971 khi Bản vị Vàng không còn nữa.
Yếu tố quan trọng nhất tác động đến giá trị của đồng đô la Mỹ là chính sách tiền tệ, được định hình bởi Cục Dự trữ Liên bang (Fed). Fed có hai nhiệm vụ: đạt được sự ổn định giá cả (kiểm soát lạm phát) và thúc đẩy việc làm đầy đủ. Công cụ chính của Fed để đạt được hai mục tiêu này là điều chỉnh lãi suất. Khi giá cả tăng quá nhanh và lạm phát cao hơn mục tiêu 2% của Fed, Fed sẽ tăng lãi suất, điều này giúp giá trị của đồng đô la Mỹ tăng. Khi lạm phát giảm xuống dưới 2% hoặc Tỷ lệ thất nghiệp quá cao, Fed có thể hạ lãi suất, điều này gây áp lực lên đồng bạc xanh.
Trong những tình huống cực đoan, Cục Dự trữ Liên bang cũng có thể in thêm Đô la và ban hành nới lỏng định lượng (QE). QE là quá trình mà Fed tăng đáng kể dòng tín dụng trong một hệ thống tài chính bế tắc. Đây là một biện pháp chính sách không chuẩn được sử dụng khi tín dụng đã cạn kiệt vì các ngân hàng sẽ không cho nhau vay (vì sợ bên đối tác vỡ nợ). Đây là biện pháp cuối cùng khi việc chỉ đơn giản là hạ lãi suất không có khả năng đạt được kết quả cần thiết. Đây là vũ khí được Fed lựa chọn để chống lại cuộc khủng hoảng tín dụng xảy ra trong cuộc Đại khủng hoảng tài chính năm 2008. Nó liên quan đến việc Fed in thêm Đô la và sử dụng chúng để mua trái phiếu chính phủ Hoa Kỳ chủ yếu từ các tổ chức tài chính. QE thường dẫn đến đồng Đô la Mỹ yếu hơn.
Thắt chặt định lượng (QT) là quá trình ngược lại trong đó Cục Dự trữ Liên bang ngừng mua trái phiếu từ các tổ chức tài chính và không tái đầu tư vốn từ các trái phiếu mà họ nắm giữ đến hạn vào các giao dịch mua mới. Thông thường, điều này có lợi cho đồng đô la Mỹ.