Cặp EUR/USD duy trì đà tăng vào thứ Sáu gần 1,1570 trong phiên giao dịch châu Á muộn vào thứ Hai. Cặp tiền tệ chính giao dịch vững chắc khi đồng đô la Mỹ (USD) đã bị đẩy lùi, sau những câu hỏi về độ tin cậy của các cơ quan dữ liệu của Hoa Kỳ (Mỹ).
Chỉ số đô la Mỹ (DXY), theo dõi giá trị của đồng bạc xanh so với sáu loại tiền tệ chính, giao dịch thận trọng gần 98,70.
Vào thứ Sáu, Tổng thống Mỹ Donald Trump đã sa thải Ủy viên Cục Thống kê Lao động (BLS) Erike McEntarfer, người bị cáo buộc đã làm giả số liệu việc làm, mà không cung cấp bằng chứng về việc can thiệp dữ liệu. Điều này xảy ra sau khi cơ quan này công bố báo cáo Nonfarm Payrolls (NFP) cho tháng 7, cho thấy sự chậm lại trong xu hướng tuyển dụng.
Báo cáo NFP của Mỹ cho thấy các nhà tuyển dụng đã thêm 73 nghìn lao động mới trong tháng 7, thấp hơn so với kỳ vọng 110 nghìn. Thêm vào đó, số liệu việc làm cho tháng 6 đã được điều chỉnh giảm mạnh xuống 14 nghìn từ 147 nghìn. Tỷ lệ thất nghiệp đã tăng lên 4,2%, như dự kiến, từ mức 4,1% trước đó.
Điều kiện thị trường lao động hạ nhiệt và nghi ngờ về độ tin cậy của dữ liệu Mỹ đã làm giảm sức hấp dẫn của đồng đô la Mỹ.
Trong tương lai, các nhà đầu tư sẽ tập trung vào dữ liệu PMI dịch vụ ISM của Mỹ cho tháng 7, sẽ được công bố vào thứ Ba.
Tại khu vực đồng euro, sự tăng trưởng ổn định trong dữ liệu Chỉ số Giá tiêu dùng đã cân đối (HICP) sơ bộ cho tháng 7 đã làm giảm hy vọng về việc cắt giảm lãi suất thêm của Ngân hàng Trung ương Châu Âu (ECB) trong thời gian tới. Dữ liệu cho thấy vào thứ Sáu rằng cả HICP tổng thể và HICP cơ bản đều tăng ổn định lần lượt là 2,0% và 2,2% so với cùng kỳ năm trước, nhanh hơn một chút so với ước tính của họ.
Đô la Mỹ (USD) là tiền tệ chính thức của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ và là tiền tệ 'trên thực tế' của một số lượng đáng kể các quốc gia khác nơi nó được lưu hành cùng với tiền giấy địa phương. Đây là loại tiền tệ được giao dịch nhiều nhất trên thế giới, chiếm hơn 88% tổng doanh thu ngoại hối toàn cầu, tương đương trung bình 6,6 nghìn tỷ đô la giao dịch mỗi ngày, theo dữ liệu từ năm 2022. Sau Thế chiến thứ hai, USD đã thay thế Bảng Anh trở thành đồng tiền dự trữ của thế giới. Trong phần lớn lịch sử của mình, Đô la Mỹ được hỗ trợ bởi Vàng, cho đến khi Thỏa thuận Bretton Woods năm 1971 khi Bản vị Vàng không còn nữa.
Yếu tố quan trọng nhất tác động đến giá trị của đồng đô la Mỹ là chính sách tiền tệ, được định hình bởi Cục Dự trữ Liên bang (Fed). Fed có hai nhiệm vụ: đạt được sự ổn định giá cả (kiểm soát lạm phát) và thúc đẩy việc làm đầy đủ. Công cụ chính của Fed để đạt được hai mục tiêu này là điều chỉnh lãi suất. Khi giá cả tăng quá nhanh và lạm phát cao hơn mục tiêu 2% của Fed, Fed sẽ tăng lãi suất, điều này giúp giá trị của đồng đô la Mỹ tăng. Khi lạm phát giảm xuống dưới 2% hoặc Tỷ lệ thất nghiệp quá cao, Fed có thể hạ lãi suất, điều này gây áp lực lên đồng bạc xanh.
Trong những tình huống cực đoan, Cục Dự trữ Liên bang cũng có thể in thêm Đô la và ban hành nới lỏng định lượng (QE). QE là quá trình mà Fed tăng đáng kể dòng tín dụng trong một hệ thống tài chính bế tắc. Đây là một biện pháp chính sách không chuẩn được sử dụng khi tín dụng đã cạn kiệt vì các ngân hàng sẽ không cho nhau vay (vì sợ bên đối tác vỡ nợ). Đây là biện pháp cuối cùng khi việc chỉ đơn giản là hạ lãi suất không có khả năng đạt được kết quả cần thiết. Đây là vũ khí được Fed lựa chọn để chống lại cuộc khủng hoảng tín dụng xảy ra trong cuộc Đại khủng hoảng tài chính năm 2008. Nó liên quan đến việc Fed in thêm Đô la và sử dụng chúng để mua trái phiếu chính phủ Hoa Kỳ chủ yếu từ các tổ chức tài chính. QE thường dẫn đến đồng Đô la Mỹ yếu hơn.
Thắt chặt định lượng (QT) là quá trình ngược lại trong đó Cục Dự trữ Liên bang ngừng mua trái phiếu từ các tổ chức tài chính và không tái đầu tư vốn từ các trái phiếu mà họ nắm giữ đến hạn vào các giao dịch mua mới. Thông thường, điều này có lợi cho đồng đô la Mỹ.