Dưới đây là những gì bạn cần biết vào thứ Tư, ngày 30 tháng 7:
Các thị trường tài chính trở nên tương đối yên tĩnh vào đầu ngày thứ Tư khi các nhà đầu tư chuẩn bị cho các sự kiện quan trọng. Trong phiên giao dịch châu Âu, dữ liệu Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) sơ bộ quý hai từ khu vực đồng euro sẽ được theo dõi chặt chẽ. Lịch kinh tế của Mỹ sẽ công bố Thay đổi việc làm ADP cho tháng 7 và dữ liệu GDP quý 2. Quan trọng hơn, Ngân hàng trung ương Canada (BoC) và Cục Dự trữ Liên bang (Fed) sẽ công bố các quyết định về chính sách tiền tệ.
Sau đợt tăng ấn tượng vào thứ Hai, Chỉ số Đô la Mỹ (USD) duy trì đà tăng và chạm mức cao nhất kể từ cuối tháng 6 trên 99,00 vào thứ Ba. Đầu ngày thứ Tư, Chỉ số USD điều chỉnh giảm và dao động quanh mức 98,80. Trong khi đó, hợp đồng tương lai chỉ số chứng khoán của Mỹ giao dịch không đồng đều, phản ánh lập trường thận trọng của thị trường. Fed được dự đoán sẽ duy trì các thiết lập chính sách sau cuộc họp tháng 7. Ngôn ngữ trong tuyên bố và các bình luận từ Chủ tịch Jerome Powell có thể ảnh hưởng đến kỳ vọng của thị trường về việc cắt giảm lãi suất vào tháng 9 và tác động đến giá trị của USD.
Mặc dù không có đột phá lớn nào được công bố sau hai ngày đàm phán giữa các quan chức Trung Quốc và Mỹ tại Stockholm, cả hai bên đều ghi nhận rằng các cuộc họp là mang tính xây dựng. Theo Reuters, các quan chức đã đồng ý tìm kiếm một sự gia hạn của thỏa thuận ngừng thuế 90 ngày. Bộ trưởng Tài chính Mỹ Scott Bessent cho biết Tổng thống Donald Trump sẽ quyết định xem có gia hạn thời gian ngừng thuế hay không.
Bảng bên dưới hiển thị tỷ lệ phần trăm thay đổi của Đô la Mỹ (USD) so với các loại tiền tệ chính được liệt kê tuần này. Đô la Mỹ mạnh nhất so với Đồng Euro.
USD | EUR | GBP | JPY | CAD | AUD | NZD | CHF | |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|
USD | 1.76% | 0.50% | 0.19% | 0.43% | 1.10% | 0.97% | 0.99% | |
EUR | -1.76% | -1.27% | -1.51% | -1.31% | -0.64% | -0.78% | -0.75% | |
GBP | -0.50% | 1.27% | -0.44% | -0.04% | 0.63% | 0.49% | 0.50% | |
JPY | -0.19% | 1.51% | 0.44% | 0.24% | 0.86% | 0.75% | 0.95% | |
CAD | -0.43% | 1.31% | 0.04% | -0.24% | 0.64% | 0.54% | 0.55% | |
AUD | -1.10% | 0.64% | -0.63% | -0.86% | -0.64% | -0.14% | -0.12% | |
NZD | -0.97% | 0.78% | -0.49% | -0.75% | -0.54% | 0.14% | 0.00% | |
CHF | -0.99% | 0.75% | -0.50% | -0.95% | -0.55% | 0.12% | -0.01% |
Bản đồ nhiệt hiển thị phần trăm thay đổi của các loại tiền tệ chính so với nhau. Đồng tiền cơ sở được chọn từ cột bên trái, và đồng tiền định giá được chọn từ hàng trên cùng. Ví dụ: nếu bạn chọn Đô la Mỹ từ cột bên trái và di chuyển dọc theo đường ngang sang Đồng Yên Nhật, phần trăm thay đổi được hiển thị trong ô sẽ đại diện cho USD (đồng tiền cơ sở)/JPY (đồng tiền định giá).
Trong phiên giao dịch châu Á, dữ liệu từ Australia cho thấy Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng 0,7% theo quý trong quý hai. Đọc số này theo sau mức tăng 0,9% được ghi nhận trong quý đầu tiên và thấp hơn kỳ vọng của thị trường là 0,8%. AUD/USD vẫn chịu áp lực giảm giá khiêm tốn sau bốn ngày liên tiếp ghi nhận thua lỗ và giao dịch gần mức 0,6500.
USD/CAD đã tăng lên mức cao nhất trong năm tuần gần 1,3790 vào thứ Ba trước khi bước vào giai đoạn củng cố. BoC được dự đoán sẽ giữ nguyên lãi suất chính sách ở mức 2,75%.
EUR/USD giữ ổn định quanh mức 1,1550 vào buổi sáng thứ Tư tại châu Âu sau khi giảm mạnh để bắt đầu tuần. Dữ liệu từ Đức cho thấy GDP tăng trưởng với tỷ lệ hàng năm là 0,4% trong quý hai, tốt hơn so với kỳ vọng của thị trường là 0,2%.
GBP/USD giao dịch trong một kênh hẹp trên 1,3350 sau khi ghi nhận thua lỗ nhỏ vào thứ Ba.
Sau khi gặp khó khăn trong việc tìm hướng đi vào thứ Ba, USD/JPY vẫn chịu áp lực giảm giá vào thứ Tư và giao dịch trong vùng tiêu cực quanh mức 148,00.
Sau bốn ngày giảm giá, Vàng đã phục hồi và tăng khoảng 0,4% vào thứ Ba. XAU/USD giữ ổn định gần mức 3.330$ vào buổi sáng tại châu Âu.
Chính sách tiền tệ tại Hoa Kỳ được định hình bởi Cục Dự trữ Liên bang (Fed). Fed có hai nhiệm vụ: đạt được sự ổn định giá cả và thúc đẩy việc làm đầy đủ. Công cụ chính của Fed để đạt được các mục tiêu này là điều chỉnh lãi suất. Khi giá cả tăng quá nhanh và lạm phát cao hơn mục tiêu 2% của Fed, Fed sẽ tăng lãi suất, làm tăng chi phí đi vay trên toàn bộ nền kinh tế. Điều này dẫn đến đồng Đô la Mỹ (USD) mạnh hơn vì khiến Hoa Kỳ trở thành nơi hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư quốc tế gửi tiền của họ. Khi lạm phát giảm xuống dưới 2% hoặc Tỷ lệ thất nghiệp quá cao, Fed có thể hạ lãi suất để khuyến khích đi vay, điều này gây áp lực lên Đồng bạc xanh.
Cục Dự trữ Liên bang (Fed) tổ chức tám cuộc họp chính sách mỗi năm, trong đó Ủy ban Thị trường Mở Liên bang (FOMC) đánh giá các điều kiện kinh tế và đưa ra các quyết định về chính sách tiền tệ. FOMC có sự tham dự của mười hai quan chức Fed – bảy thành viên của Hội đồng Thống đốc, Thống đốc Ngân hàng Dự trữ Liên bang New York và bốn trong số mười một Thống đốc Ngân hàng Dự trữ khu vực còn lại, những người phục vụ nhiệm kỳ một năm theo chế độ luân phiên.
Trong những tình huống cực đoan, Cục Dự trữ Liên bang có thể dùng đến một chính sách có tên là Nới lỏng định lượng (QE). QE là quá trình mà Fed tăng đáng kể dòng tín dụng trong một hệ thống tài chính bị kẹt. Đây là một biện pháp chính sách không theo tiêu chuẩn được sử dụng trong các cuộc khủng hoảng hoặc khi lạm phát cực kỳ thấp. Đây là vũ khí được Fed lựa chọn trong cuộc Đại khủng hoảng tài chính năm 2008. Điều này liên quan đến việc Fed in thêm Đô la và sử dụng chúng để mua trái phiếu cấp cao từ các tổ chức tài chính. QE thường làm suy yếu Đồng đô la Mỹ.
Thắt chặt định lượng (QT) là quá trình ngược lại của Nới lỏng định lượng (QE), theo đó Cục Dự trữ Liên bang ngừng mua trái phiếu từ các tổ chức tài chính và không tái đầu tư số tiền gốc từ các trái phiếu mà họ nắm giữ đến hạn để mua trái phiếu mới. Thông thường, điều này có lợi cho giá trị của đồng đô la Mỹ.