Dưới đây là những gì bạn cần biết vào thứ Năm, ngày 24 tháng 7:
Các thị trường tài chính sẽ tạm nghỉ khỏi các tiêu đề liên quan đến thương mại vào thứ Năm và chú ý đến thông báo chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương Châu Âu (ECB). Ngoài ra, lịch kinh tế sẽ có dữ liệu Chỉ số người quản lý mua hàng (PMI) ngành sản xuất và dịch vụ sơ bộ tháng 7 cho Đức, khu vực đồng euro, Vương quốc Anh và Mỹ.
Bảng bên dưới hiển thị tỷ lệ phần trăm thay đổi của Đô la Mỹ (USD) so với các loại tiền tệ chính được liệt kê tuần này. Đô la Mỹ là yếu nhất so với Đô la Úc.
USD | EUR | GBP | JPY | CAD | AUD | NZD | CHF | |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|
USD | -1.19% | -1.13% | -1.27% | -0.83% | -1.54% | -1.35% | -1.10% | |
EUR | 1.19% | 0.14% | -0.05% | 0.34% | -0.40% | -0.35% | 0.05% | |
GBP | 1.13% | -0.14% | -0.40% | 0.25% | -0.50% | -0.26% | 0.11% | |
JPY | 1.27% | 0.05% | 0.40% | 0.46% | -0.23% | -0.13% | 0.35% | |
CAD | 0.83% | -0.34% | -0.25% | -0.46% | -0.65% | -0.52% | -0.31% | |
AUD | 1.54% | 0.40% | 0.50% | 0.23% | 0.65% | 0.13% | 0.59% | |
NZD | 1.35% | 0.35% | 0.26% | 0.13% | 0.52% | -0.13% | 0.38% | |
CHF | 1.10% | -0.05% | -0.11% | -0.35% | 0.31% | -0.59% | -0.38% |
Bản đồ nhiệt hiển thị phần trăm thay đổi của các loại tiền tệ chính so với nhau. Đồng tiền cơ sở được chọn từ cột bên trái, và đồng tiền định giá được chọn từ hàng trên cùng. Ví dụ: nếu bạn chọn Đô la Mỹ từ cột bên trái và di chuyển dọc theo đường ngang sang Đồng Yên Nhật, phần trăm thay đổi được hiển thị trong ô sẽ đại diện cho USD (đồng tiền cơ sở)/JPY (đồng tiền định giá).
Khi các thị trường vui mừng trước tin tức về thỏa thuận thương mại Mỹ-Nhật, dòng tiền rủi ro đã chi phối hành động trên thị trường vào thứ Tư. Các chỉ số chính của Phố Wall ghi nhận mức tăng mạnh trong ngày và Chỉ số Đô la Mỹ (USD) đóng cửa trong vùng tiêu cực trong bốn ngày liên tiếp. Vào đầu ngày thứ Năm, hợp đồng tương lai chỉ số chứng khoán Mỹ giao dịch trái chiều và Chỉ số USD giữ ổn định trên 97,00. Nhà Trắng cho biết vào tối thứ Tư rằng Tổng thống Mỹ Donald Trump sẽ thăm Cục Dự trữ Liên bang vào thứ Năm.
Trong giờ giao dịch châu Á, dữ liệu từ Úc cho thấy Chỉ số PMI tổng hợp S&P Global đã cải thiện lên 53,6 trong tháng 7 từ 51,6 trong tháng 6, phản ánh sự mở rộng liên tục trong hoạt động kinh doanh của khu vực tư nhân với tốc độ tăng nhanh. Trong khi đó, Thống đốc Ngân hàng Dự trữ Úc (RBA) Michele Bullock nhấn mạnh rằng một cách tiếp cận thận trọng và dần dần đối với việc nới lỏng tiền tệ là phù hợp. Sau khi tăng hơn 0,7% vào thứ Tư, AUD/USD duy trì đà tăng vào đầu ngày thứ Năm và giao dịch ở mức cao nhất kể từ tháng 11 trên 0,6600.
Chỉ số PMI sản xuất của Ngân hàng Jibun tại Nhật Bản giảm xuống 48,8 trong tháng 7 và thấp hơn kỳ vọng của thị trường là 50,2. Về mặt tích cực, Chỉ số PMI dịch vụ của Ngân hàng Jibun tăng lên 53,5 từ 51,7 trong giai đoạn này. USD/JPY vẫn chịu áp lực giảm giá và giao dịch gần 146,00 vào buổi sáng châu Âu, giảm hơn 0,3% trong ngày.
ECB được dự đoán sẽ giữ nguyên lãi suất chính sau cuộc họp tháng 7. Chủ tịch ECB Christine Lagarde sẽ phát biểu về triển vọng chính sách trong một cuộc họp báo bắt đầu lúc 12:45 GMT. EUR/USD vẫn trong giai đoạn củng cố trên 1,1750 sau khi ghi nhận mức tăng vừa phải vào thứ Tư.
GBP/USD giữ ổn định trên 1,3550 sau khi đóng cửa cao hơn trong ba ngày trước đó.
USD/CAD dao động trong một kênh hẹp quanh mức 1,3600 trong phiên giao dịch châu Âu vào thứ Năm và giảm khoảng 1% trong tuần. Vào cuối ngày, Cơ quan Thống kê Canada sẽ công bố dữ liệu Doanh số bán lẻ cho tháng 5.
Vàng gặp khó khăn trong việc tìm kiếm nhu cầu và đã có một sự điều chỉnh sâu vào thứ Tư khi dòng tiền rủi ro chi phối các thị trường. XAU/USD tiếp tục giảm sau khi mất hơn 1% vào thứ Tư và giao dịch dưới 3.380$.
Ngân hàng Trung ương Châu Âu (ECB) tại Frankfurt, Đức, là ngân hàng dự trữ của Khu vực đồng tiền chung châu Âu. ECB đặt ra lãi suất và quản lý chính sách tiền tệ cho khu vực. Nhiệm vụ chính của ECB là duy trì sự ổn định giá cả, nghĩa là giữ lạm phát ở mức khoảng 2%. Công cụ chính để đạt được mục tiêu này là tăng hoặc giảm lãi suất. Lãi suất tương đối cao thường sẽ dẫn đến đồng Euro mạnh hơn và ngược lại. Hội đồng quản lý ECB đưa ra quyết định về chính sách tiền tệ tại các cuộc họp được tổ chức tám lần một năm. Các quyết định được đưa ra bởi người đứng đầu các ngân hàng quốc gia Khu vực đồng tiền chung châu Âu và sáu thành viên thường trực, bao gồm Thống đốc ECB, Christine Lagarde.
Trong những tình huống cực đoan, Ngân hàng Trung ương Châu Âu có thể ban hành một công cụ chính sách gọi là Nới lỏng định lượng. Nới lỏng định lượng (QE) là quá trình ECB in Euro và sử dụng chúng để mua tài sản – thường là trái phiếu chính phủ hoặc trái phiếu doanh nghiệp – từ các ngân hàng và các tổ chức tài chính khác. QE thường dẫn đến đồng Euro yếu hơn. QE là biện pháp cuối cùng khi việc chỉ đơn giản là hạ lãi suất không có khả năng đạt được mục tiêu ổn định giá cả. ECB đã sử dụng biện pháp này trong cuộc Đại khủng hoảng tài chính năm 2009-2011, năm 2015 khi lạm phát vẫn ở mức thấp một cách ngoan cố, cũng như trong đại dịch covid.
Thắt chặt định lượng (QT) là ngược lại với Nới lỏng định lượng (QE). Nó được thực hiện sau QE khi nền kinh tế đang phục hồi và lạm phát bắt đầu tăng. Trong khi ở QE, Ngân hàng Trung ương Châu Âu (ECB) mua trái phiếu chính phủ và trái phiếu doanh nghiệp từ các tổ chức tài chính để cung cấp cho họ thanh khoản, thì ở QT, ECB ngừng mua thêm trái phiếu và ngừng tái đầu tư số tiền gốc đáo hạn vào các trái phiếu mà họ đang nắm giữ. Thường thì điều đó là tích cực (hoặc tăng giá) đối với đồng Euro.